Vùng đất Cần Thơ đã hình thành từ khoảng 2000 – 2500 năm trước, đồng thời với việc hình thành của đồng bằng sông Cửu Long. Sau giai đoạn phát triển đầy sức sống của Vương quốc Phù Nam và Văn hóa Óc Eo kéo dài suốt sáu thế kỷ đầu Công nguyên, do các tình huống lịch sử và những thay đổi địa lý khắc nghiệt thời điểm đó, vùng đồng bằng này đã trở nên hoang vu và dân cư thưa thớt trong một thời gian dài.
Tên gọi Cần Thơ và xuất xứ hai tiếng “Tây Đô”
Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong quyển sách sưu khảo Cần Thơ xưa và nay thì có hai truyền thuyết sau về tên gọi Cần Thơ:
Khi Nguyễn Ánh chưa trở thành vua, ông đã đi qua nhiều vùng ở châu thổ sông Cửu Long, và một ngày đoàn thuyền đi vào địa phận thủ phủ Trấn Giang (Cần Thơ xưa). Giữa đêm trường canh, khi bến sông vắng lặng, nhiều người đã thấy những câu thơ ngâm, những bài hát, tiếng đàn và sáo đang hòa quyện nhịp nhàng. Nguyễn Ánh đã ca ngợi cảnh quan sông nước tuyệt đẹp này và đặt tên cho con sông này là Cầm Thi giang – một cái tên đầy thơ mộng. Dần dần, hai tiếng Cầm Thi lan truyền rộng trong dân chúng và nhiều người nói trại ra thành Cần Thơ.
Có một truyền thuyết khác kể rằng sông Cần Thơ trước đây trồng rất nhiều loại rau cần và rau thơm trên hai bên bờ, và các thuyền ghe chở hàng qua lại với đầy đủ rau cần, rau thơm để bán. Từ đó, người địa phương đã gọi sông này là “sông Cần Thơm”, sau đó trở thành “Cần Thơ” theo cách nói trại.
Về hai tiếng Tây Đô, cho đến nay chưa rõ bất kỳ lý do chính thức nào gọi Cần Thơ là Tây Đô. Tuy nhiên, nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi về giao thông, thương mại, công nghệ và cả quân sự, Cần Thơ được xem là trung tâm của vùng.
Lịch sử hình thành một vùng đất
Cuối thế kỷ XVIII, Mạc Cửu đến Hà Tiên khai khẩn và lập nghiệp dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Năm 1732, chúa Nguyễn chia toàn bộ lãnh thổ phía Nam thành ba Dinh và một Trấn gồm: Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hòa ngày nay), Phiên Trấn Dinh (Gia Định), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu qua đời, Mạc Thiên Tích tiếp nối công cuộc của cha và đẩy mạnh khai khẩn ra vùng hữu ngạn sông Hậu. Đến năm 1739, công cuộc khai khẩn hoàn tất với sáp nhập bốn vùng đất mới: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) vào đất Hà Tiên. Điều này đánh dấu sự xuất hiện của vùng đất Cần Thơ.
Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không thể chiếm được Trấn Giang. Đến năm 1774, quân nghĩa quân Tây Sơn xông vào Nam và chiếm được thành Gia Định, sau đó tiến vào miền Tây và chiếm được Trấn Giang. Tuy nhiên, sau trận Rạch Gầm Xoài Mút năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới sự bảo hộ của nhà Nguyễn. Trong những năm 1770 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy biến động.
Sau khi Gia Long lên ngôi, Trấn Giang trở thành một phần của địa giới của trấn Vĩnh Thanh. Năm 1813, vua Gia Long cắt một vùng đất phì nhiêu ở bờ phải sông Hậu (bao gồm Trấn Giang – Cần Thơ cũ) để lập huyện Vĩnh Định, thuộc phủ Đình Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, vua Minh Mạng ban hành chiếu đổi “Trấn” thành “Tỉnh” và chuyển huyện Vĩnh Định sang phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Huyện Vĩnh Định sau đó được đổi tên thành Phong Phú, nổi tiếng là một vùng đất thịnh trị và an ninh khác biệt so với các vùng khác ở miền Tây thời đó.
Sau thời kỳ thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, huyện Phong Phú thuộc tỉnh Vĩnh Long và được sử dụng cho đến năm 1876 khi nó được tách ra để trở thành thủ phủ của tỉnh Cần Thơ. Trước năm 1975, tỉnh Cần Thơ được đổi tên thành tỉnh Phong Dinh bởi quyết định của Ngô Đình Diệm. Sau đó, sau khi thống nhất đất nước, Cần Thơ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hậu Giang. Tuy nhiên, năm 1991, tỉnh Hậu Giang được chia tách thành hai tỉnh riêng biệt là Cần Thơ và Sóc Trăng. Sau đó, vào năm 2004, tỉnh Cần Thơ được chia tách thành hai đơn vị hành chính là thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Theo: Đại chí Cần Thơ