Menu Đóng

Tiếng Khmer trong ngôn ngữ người dân miền Tây

Tiếng Khmer trong ngôn ngữ người dân miền Tây

Theo tác phẩm “Cơ sở văn hoá Việt Nam” do Trần Quốc Vượng chủ biên, khu vực được xem là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2, bao gồm chủ yếu đồng bằng và các vùng trũng như Đồng Tháp Mười hai bên dòng sông Tiền, tứ giác Long Xuyên nằm ở phía Tây sông Hậu. Những hồ nước thiên nhiên này góp phần điều hoà lưu lượng nước cho sông Cửu Long vào mùa lũ, đặc biệt là vào tháng 9 và tháng 10. Vùng biển nông ngoài khơi bao gồm nhiều đảo và quần đảo như Côn Sơn, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc… cũng như một số dãy núi thấp ở phía Tây các tỉnh An Giang và Kiên Giang.

Chủ nhân văn hóa và ngôn ngữ

Vào cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính đi quản lý miền Nam. Đến năm 1779, phủ Gia Định đã mở rộng quyền kiểm soát trên toàn bộ vùng Nam Bộ hiện nay. Từ thời điểm đó, người Việt từ miền Trung và miền Bắc đã di chuyển vào vùng Đồng Nai, Gia Định để khai phá và định cư, sau đó dần tiến vào vùng đất Cửu Long.

Số người Khmer sinh sống ở ĐBSCL hiện nay ước tính khoảng 1.300.000 người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Sóc Trăng (khoảng 400.000), Trà Vinh (khoảng 320.000), Kiên Giang (khoảng 204.000), An Giang (khoảng 85.000), Bạc Liêu (khoảng 60.000), Cần Thơ (khoảng 39.000), Cà Mau (khoảng 24.000), và Vĩnh Long (khoảng 21.000)…

Người Khmer, một trong những tộc người thuộc cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đã có bề dày lịch sử sinh sống tại đồng bằng sông Cửu Long. Họ sở hữu ngôn ngữ và chữ viết riêng biệt, nhưng lại chia sẻ chung một nền văn hóa và lịch sử bảo vệ, xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sinh sống hoà nhập cùng người Kinh, người Hoa trong các phum, sóc, và ấp. Trong cuộc sống gắn kết này, sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa tiếng Khmer và tiếng Việt diễn ra tự nhiên như một quy luật của ngôn ngữ.

Trong bài viết này, mục tiêu của chúng tôi là khám phá, tìm hiểu và học thêm về những từ, chữ có liên hệ giữa tiếng Kinh và tiếng Khmer, đồng thời liệt kê một số câu ca dân gian là lời ăn tiếng nói trong cộng đồng, nhằm tìm kiếm căn nguyên của chúng.

Những tiếng Khmer còn giữ nguyên gốc

Những từ gốc Kampuchia đã trở nên thông dụng trong tiếng Việt và người Việt đã ký âm chúng bằng cách sử dụng chữ cái tiếng Việt. Chúng ta đã sử dụng những từ loại này trong vài thế kỷ, đến mức chúng ta không biết chúng bắt nguồn từ đâu, chỉ cần hiểu ý nghĩa và sử dụng chúng giống như những từ tiếng Việt thông dụng khác. Tuy nhiên, số lượng các từ ngữ gốc Kampuchia xuất hiện trong tiếng Việt phổ thông không nhiều.

Xneng là một dụng cụ đơn giản làm từ mành tre hoặc trúc của người Khmer, hình dạng giống như cái xuổng. Người dân dùng nó để xúc cá, tép ở những nơi có nước cạn và cỏ hoang mọc đầy. Tiếng ca vang lên trên cánh đồng, ruộng của ai đó như sau:

Chiều chiều lấy cái xneng
Lên đồng xúc cá hái sen một mình

Ở một câu ca khác:

Thằn lằn cụt đuôi ai nuôi mày lớn
Dạ thưa thầy con lớn mình ên

Khmer có êng: một mình, chuyển sang Việt ngữ mất chữ g thành ên cũng mang nét nghĩa một mình. Hay:

Xa em nhớ vị sim lo
Xa em nhớ khứa cá kho quê nghèo

Sim lo (hay sum lo) là món canh của người Khmer được nấu từ quả bầu hoặc lá bình bát dây, đặc trưng của món ăn này là việc nêm bằng mắm bò hóc (prahok). Đây là từ mà người Việt mượn nguyên mẫu để sử dụng.

Cái nóp đã trở thành một vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống của quân và dân Nam Bộ. Từ “nóp” cũng có nguồn gốc từ tiếng Khmer và được giữ nguyên, chỉ được chuyển sang tiếng Việt thông qua việc phiên âm:

Vai mang cái nóp tay xách cái lọp cái lờ
Về miền đồng chua nước mặn đặng nhờ miếng ăn

Cái lộp theo tiếng Khmer là dụng cụ đan bằng tre, dùng để bắt cá tôm. Một đầu của lộp có hom bện bằng tre vót cỡ chiếc đũa ăn, hình phễu, cá tôm, rùa rắn vào được nhưng không thể ra. Nông dân miệt này ai cũng biết, cũng dùng lộp để bắt thuỷ sản.

Những từ Khmer được Việt hoá

Các từ tiếng Khmer khi được đưa vào tiếng Việt, người Việt và người Hoa đều có cách phiên âm riêng của mình. Dần dần, những từ này đã thay đổi cả về hình thức ngữ âm và trở nên phổ biến trong ngôn ngữ của người dân đồng bằng sông nước Cửu Long. Tuy nhiên, người ta thường sử dụng và viết chúng mà ít chú ý đến nguồn gốc của chúng từ đâu.

Những từ chỉ địa danh

Trong 13 tỉnh thành thuộc vùng đất Chín Rồng, hơn nửa số các địa danh riêng có nguồn gốc từ tiếng Khmer hoặc vẫn giữ được dấu ấn của nguồn gốc Khmer. Các ví dụ bao gồm: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau, và những tỉnh thành khác.

Từ vùng đất mũi còn vang vọng lời ca:

Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trong rừng cọp um

Cà Mau là phiên âm tiếng Việt của từ tiếng Khmer “Tuk Khmau”, có nghĩa là “nước đen”. Điều này xuất phát từ đặc điểm của vùng rừng U Minh, bao gồm Cán Gáo, Tân Bằng, Trèm Trẹm, Cái Tàu và khu vực hữu ngạn sông Ông Đốc. Ở đây, nước ngập quanh năm và chảy qua rừng đầy lá mục của dừa nước, tràm, gừa ráng, choại, dớn, lát, sậy, năn và cỏ nước mặn. Do đó, nước có màu vàng đậm, giống như nước trà, đôi khi có màu đen, mùi hôi và vị chua, mặn do chứa phèn.

Về đất Ba Xuyên nghe câu hát:

Chợ Sóc Trăng chà gạo lộn trấu càng,
Anh thương em là thương lời ăn tiếng nói dịu dàng,
Chớ không phải anh vì bạc vì vàng mà thương.

Theo Lê Hương, Sóc Trăng bắt nguồn từ tiếng Khmer “Srok Tréang”, có nghĩa là “bãi sậy” do xưa kia đất Sóc Trăng có nhiều lau sậy hoang vu. Ông cũng đưa ra một truyền thuyết khác cho rằng địa danh này (tại ấp Sóc Vồ ngày nay) vào thời Nguyễn, giặc Xà Na Téa và Xà Na Tua sử dụng để chứa bạc, vũ khí và lương thực chống lại triều đình. Do đó, Sóc Trăng có thể bắt nguồn từ tiếng Khmer “Srok Kh’leang”.

Tuy nhiên, Vương Hồng Sển cho rằng: Theo sách “Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine” của Trương Vĩnh Ký, Sóc Trăng là tên dân gian của tỉnh Nguyệt Giang (hay tỉnh Sông Trăng). Tên này có nguồn gốc Khmer là “Péam prêk sròk khlẵn” (theo phiên âm của Trương Vĩnh Ký trong le Cisbassac). “Péam” là vàm, “prêk” là sông, “sròk” là sốc và “khlẵn” (kh’leang) là kho bạc. Ngày xưa, vua Khmer đã đặt một kho bạc tại đây. Đến thời vua Minh Mạng, đổi tên thành Nguyệt Giang tỉnh do triều đình ép chữ “sốc” thành “sông” và chữ “kh’leang” thành “trăng” để tạo ra chữ “nguyệt”. Nhà học giả này còn khẳng định Sóc phải viết có dấu ô, tức là Sốc mới là đúng.

Qua cầu Rạch Miễu đến quê hương Đồng Khởi, xứ dừa :

Bến Tre nhiều gái má hồng
Không tin thì xuống Mỹ Lồng mà coi

Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, Bến Tre từng là vùng đất phong phú về cá và tôm. Do đó, người Khmer xưa gọi nơi này là “Srok treay” (đọc là “sốc tre”). Tuy nhiên, sau này người Khmer đã gọi theo tên tiếng Việt là “bến có nhiều tre” để phân biệt với địa danh Cần Thơ, nơi cũng có nhiều tre. Người Khmer gọi tre là “rusei”, nên có hai địa danh rành rẽ: “prêk rusei” (sông tre) chỉ Cần Thơ, và “prêk kompong rusei” chỉ Bến Tre.

Hội nghiên cứu cổ học Đông Dương năm 1903 đã ấn hành quyển khảo cứu đặc biệt (monographia) về tỉnh Bến Tre, trong đó có đoạn (lược dịch): “Bến Tre xưa, người Khmer gọi là sốc tre … vì trong xứ trên các giồng có tre mọc đầy.” Tuy nhiên, Vương Hồng Sển cho rằng đây là việc dịch sai hai chữ Bến Tre. Chữ “tre” ở đây là “treay” của tiếng Khmer, có nghĩa là cá. Lẽ ra, Bến Tre nên được gọi là “Ngư Tân” hoặc “Bến Cá” và tiếng Khmer là “srok kompong treay”.

Mỹ Lồng là một địa danh nổi tiếng với nghề làm bánh tráng, bao gồm Bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc. Tên gọi Mỹ Lồng có nguồn gốc từ chữ tiếng Khmer “Srok Mi Lôn”, có nghĩa là xứ hoặc xóm của một người phụ nữ tên Lôn.

Ngược lên vùng Bảy Núi, có câu:

Anh về xứ Chắc Cà Đao
Bỏ em ở lại như dao cắt lòng

Chắc Cà Đao là tên một con rạch và cũng là tên một chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Học giả Vương Hồng Sển đã ghi lại hai giải thích cho tên gọi này:

  1. Theo ông Nguyễn Văn Đính, tên gọi Chắc Cà Đao có thể bắt nguồn từ chữ tiếng Khmer “chắp kdam” (bắt cua), bởi vì vùng này xưa kia có nhiều cua.
  2. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao bắt nguồn từ chữ tiếng Khmer “Prek Pedao”; “Prek” có nghĩa là rạch, còn “pédao” là loại dây mây. Vậy tên gọi này ám chỉ rạch có nhiều dây mây.

Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn văn Đính hợp lý hơn. Trở lại Tiền Giang khảo chứng từ Mỹ Tho:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ

Người Khmer thời xưa gọi vùng đất Mỹ Tho là “srock mé sa” hoặc “mi so” (theo di cảo của Trương Vĩnh Ký trong le Cisbassac). Cụm từ này có nghĩa là xứ (srock) có nàng con gái (mé) có nước da trắng (sa, so). Khi dịch sang tiếng Việt, dân gian gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ “srock” và chỉ giữ lại “mi so” rồi biến âm thành Mỹ Tho.

Vượt cầu Cần Thơ về lại Phong Điền:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê

Vương Hồng Sển khẳng định rằng Cái Răng là vùng kênh rạch ngày xưa có nhiều ghe của người Khmer chở cà ràn đi bán. Cà ràn là lò bằng đất nung, gồm hai phần: phía trước rộng chứa củi đang cháy, đồng thời là nơi chứa tro và than đỏ để nướng (nướng kẹp tre); phần sau là lò lửa với miệng có gắn ba chấu (ông táo) để đặt nồi. Cà ràn phổ biến ở vùng Tân Châu, Châu Đốc, sử dụng trong nhà sàn để bảo vệ sàn nhà khỏi hỏa hoạn. Tương tự, cà ràn cũng được người dân chài lưới hay những người sống trên ghe lưu động ưa dùng vì tiện lợi. Chính từ cà ràn, các bản đồ thời Pháp đã phiên âm thành “caran” và dần biến âm thành Cái Răng như ngày nay.

Vàm có nguồn gốc từ tiếng Khmer: “péam” có nghĩa là cửa sông, nơi một con sông nhỏ (rạch) chảy vào con sông lớn. Đồng bằng miền Tây Nam Bộ có nhiều sông rạch, do đó có rất nhiều địa danh bắt đầu bằng chữ vàm như Vàm Cống (thuộc Gò Công), Vàm Nước Trong (Kiến Hòa), Vàm Sông Thượng (Cần Thơ), Vàm Nao (An Giang) và Vàm Tấn ở Sóc Trăng.

Anh qua Vàm Tấn anh đến Cù Lao
Cho anh xin chút má đào của em

Theo Trương Vĩnh Ký, chữ “péam” trong tiếng Khmer có nghĩa là vàm. Tuy nhiên, theo Vương Hồng Sển, dẫn theo tác phẩm “La Cochinchine et ses habitants” của Baurac (trang 362), trước đây cho đến năm 1858, Vàm Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn (péam senn) – một bến nước quan trọng nơi các thuyền đi biển từ Trung Quốc, Tân Gia Ba, Xiêm La, Campuchia… tụ tập đông đúc để trao đổi, mua bán lúa gạo, tơ lụa, hàng vải, cá mắm, mắm muối, đồ gốm, chén bát, sừng trâu, ngà voi, lông chim, sáp, mật ong… Đại Ngãi là tên Hán Việt của địa danh này.

Ở một câu ca khác:

Nước Ba Thắc chảy cắt như dao
Con cá đao bổ nhào vô lưới
Biết chừng nào anh mới cưới đặng em

Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký, Ba Thắc có tên gọi tiếng Khmer là Păm prek Bàsàk. Đây là tên của một vị thần hoặc còn gọi là nặc tà, ông tà của người Khmer, có miếu thờ ở Bãi Xàu cũ. Ở Campuchia cũng có địa danh Ba Thắc. Tương truyền, ông Ba Thắc là một hoàng tử người Lào đến sống ở vùng đất này trên đường đi Tham Đôn, Mỹ Xuyên ngày nay. Khi ông qua đời, người dân xung quanh đã lập miếu thờ.

Ban đầu, miếu được xây dựng theo kiến trúc Khmer bằng gỗ. Tuy nhiên, vào năm 1927, ông Lê Văn Quạnh và một số thân hào trong vùng đã cất lại miếu theo kiến trúc Trung Hoa kiểu bán cổ bán kim và đổi tên thành Ba Thắc Cổ Miếu. Di tích này vẫn tồn tại đến ngày nay.

Những danh từ chỉ động, thực vật, đồ vật

Bên cạnh những địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer đã được Việt hoá, cũng có nhiều từ gốc Khmer chỉ các loài động vật, thực vật hay đồ vật đã trở thành một phần của ngôn ngữ tiếng Việt và tham gia bình đẳng trong các hoạt động giao tiếp hàng ngày. Những từ này đã hòa nhập và gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hoá của người Việt, phản ánh sự giao thoa văn hoá giữa người Việt và người Khmer.

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu

Cá chốt, có nguồn gốc từ tiếng Khmer là trey kanchos, khi đi vào ngôn ngữ phổ thông đã được Việt hoá thành chốt. Một ví dụ tương tự là từ cá lóc:

Trời mưa mát đất, con cá lóc nó thoát khỏi nò
Cả tiếng kêu người nghĩa trên bờ
Vậy chớ mùng ai có rộng cho tôi ngủ nhờ một đêm

Tiếng Khmer có trêy rot chỉ một loại cá nước ngọt, cá này có rất nhiều ở vùng đồng bằng Cửu Long. Ở Bắc, Trung Bộ gọi là cá chuối, cá quả, cá tràu, …

Bầu dùng chỉ một loại ghe lớn. Tiếng Khmer có xòm pầu tức ghe bầu; nói chi xòm pầu nghĩa là đi ghe bầu. Ca dao có câu:

Con quạ nó đứng đầu cầu
Nó kêu bớ má ghe bầu vô chưa?

Một loại ghe khác là ghe chài, danh từ ấy cũng được kết hợp hết sức độc đáo:

Chú tôi trồng mía trồng khoai
Bớ thím ghe chài lấy chú tôi không?

Thím ghe chài là hình ảnh ẩn dụ chỉ người đàn bà đi trên ghe. Ghe chài là loại ghe có trọng tải lớn. Tiếng Khmer có từ tuk pokchay, trong đó tuk có nghĩa là ghe, còn pokchay có nghĩa là chở đủ thứ, là từ tiếng Triều Châu đã được tiếng Khmer vay mượn và sử dụng như một từ Khmer. Người Việt dịch chữ tuk thành chữ ghe và vay mượn chữ pokchay, đọc thành chài. Theo học giả Bình Nguyên Lộc, người Khmer còn gọi ghe chài là thwe.

Và:

Trắng da vì bởi má cưng
Đen da vì bởi em lội bưng vớt bèo

Bưng được Việt hóa từ chữ trapéang trong tiếng Khmer, có nghĩa là vũng hoặc ao. Ban đầu, từ này được đọc là trà bang hay trà vang, sau đó rút ngắn thành bang và cuối cùng biến âm thành bưng. Từ bưng sau đó kết hợp với từ Hán Việt “biên” (nghĩa là bờ phía ngoài), tạo thành cụm từ “bưng biền”.

Những từ ngữ không xác định được nguồn gốc

Đây là những từ cùng âm và cùng nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Khmer. Sau khi tra cứu nhiều tài liệu và tham khảo nhiều ý kiến, chúng tôi nhận thấy rằng việc xác định nguồn gốc của những từ này khá khó khăn. Chúng có thể có nguồn gốc từ tiếng Khmer mà tiếng Việt vay mượn, hoặc ngược lại có nguồn gốc từ tiếng Việt và được đồng bào Khmer vay mượn. Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu:

Chuối non vú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm

Ép là đẩy dính sát vào nhau, làm áp lực, người Kinh dùng từ ấy, trong khi người Khmer có tiếng ép, bòng-ep, cùng nghĩa.

Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình nên chẳng biết ngon

Cá linh (không rõ Khmer – Việt hay Việt – Khmer, bởi trong ngôn ngữ Khmer cũng có từ linh: chỉ loài cá!)

Xuống lên lên xuống đã quen
Bông tai hai chiếc tòn ten anh mua tặng mình.

Trong ngôn ngữ Khmer có tòn tenh oi cham, tức lặp đi lặp lại nhiều lần cho dễ nhớ, chuyển sang chữ tòn ten của Việt ngữ có nghĩa là lủng lẳng. Không biết ngôn ngữ nào vay mượn của ngôn ngữ nào ?
Một số câu hát quen thuộc khác:

Bình Đông là xứ quê mùa
Đi thăm cháu ngoại một vùa cà na

Tiếng Khmer kêu cà na là kana. Cà na là loại cây có loại màu đen, có loại màu xanh lợt, có loại màu trắng. Cà na trong tiếng Việt còn được gọi là tráp (Bắc Bộ). Cà na là từ ngữ trở thành tên gọi của một chi trong khoa học thảo mộc (canarium), bắt nguồn từ tiếng Nam Dương (Indonesia), Khmer hoặc Việt ?

Thầy anh lên xuống xuống lên
Theo anh, em biết xui hên thế nào?

Hên: may mắn. Tiếng Khmer có từ hêng, cùng âm và cùng nghĩa. Như vậy, hên rõ ràng là một từ ngữ của miền Nam, nhưng việc xác định nó có gốc Khmer hay không vẫn chưa chắc chắn.

Tiếng Khmer có từ ak hay k-ak chỉ con diều. Người Việt gọi chim ác là một loại chim săn giống như ó, diều, có lông trắng, thân hình nhỏ, và giọng la nhức tai mỗi khi chúng chạm trán với nhau.

Ngó lên con ác lăng xăng
Có đôi chim sẻ đang quần với nhau

Người Việt nói ém: dấu mất, Khmer cũng nói ém cùng nghĩa. Chúng ta hãy xem câu ca mang chức năng hài hước sau đây:

Anh như du kích ém quân
Chờ khi trăng lặn mới … mần với em!

Bên cạnh hệ thống từ Hán Việt và các từ vay mượn từ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Khmer cũng đóng góp một phần quan trọng vào ngôn ngữ tiếng Việt. Một số từ vẫn giữ nguyên dạng thức phiên âm, trong khi một số khác đã được chuyển sang ngữ âm Việt ngữ. Chúng có nguồn gốc từ tiếng Khmer, nhưng do sử dụng lâu đời, chúng đã hoàn toàn được Việt hóa và chúng ta thường không nghĩ đến nguồn gốc của chúng.

Ngoài ra, còn có một lớp từ vựng tồn tại cả trong tiếng Việt và tiếng Khmer, và việc xác định nguồn gốc chính xác của những từ này – tức là ai mượn từ ai – là một vấn đề phức tạp và khó giải quyết. Hi vọng sẽ có dịp nghiên cứu sâu hơn về đề tài này trong tương lai.

Thông qua ngôn ngữ – cụ thể hơn là ngôn ngữ ẩn chứa trong những câu ca lời hát của dân bình miền quê Tây Nam Bộ, chúng ta có thể nhận thấy sự giao lưu văn hóa và ngôn ngữ diễn ra một cách tự nhiên giữa hai chủng tộc sống gần nhau. Điều này cũng là một đặc điểm nổi bật của nền văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trần Minh Thương

Posted in Ca dao - Tục ngữ

Bài tham khảo