Menu Đóng

Câu đố trong văn hóa dân gian người miền Tây

Câu đố trong văn hóa dân gian người miền Tây

Câu đố là một hình thức văn hóa dân gian khá thú vị của người Miền Tây. Qua những “câu đố” ấy đã thể hiện tâm tư, tình cảm và mong muốn thỏa mãn tri thức cũng như nhu cầu giải trí của người dân lao động. Sự liên tưởng trong câu đố thường mang tính bất ngờ, hóm hỉnh và đa dạng về màu sắc.

Ngày xưa, cư dân ở Đồng bằng sông Cửu Long trong những giờ lao động mệt nhọc đã tìm cách giải trí bằng việc đàn ca, hò hát, ca dao và đặt ra câu đố. Những câu đố này không chỉ giúp nâng cao tri thức của con người, mà còn giúp họ tìm niềm vui trong công việc. Nổi bật trong kho tàng câu đố ở khu vực này, nhiều câu đố được sáng tác dựa trên ca dao.

Người ta thường đặt câu đố dựa vào nền tảng ca dao, hoặc sử dụng hình thức ca dao để tạo nên những câu đố vần vững, dễ nhớ và thú vị hơn. Điều này cũng chứng minh khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng độc đáo và sự vận dụng linh hoạt các thể thơ dân gian trong hệ thống câu đố của người dân lao động xưa.

Gươm vàng hai lưỡi gươm vàng
Thác thì chịu thác, chứ buông nàng không buông.
(Con Sam)

Năm thằng cầm hai cái sào
Đuổi đàn trâu trắng chui vào trong hang.
(Ăn cơm)

Cây gì có quả không hoa
Vì chưng không lá chê già, chê non.
(Cây cân)

Thân ta không mẹ không cha
Vốn không họ hàng, ở nhà người dưng.
(Cây chùm gửi)

Kể các các nhân vật trong tiểu thuyết Tàu đều trở nên rất quen thuộc và sống động hơn:

Trên thì Gia Cát cầu phong
Dưới thời lập trận hỏa công đánh Tào
Hai bên tả hữu xông vào
Đánh cho Tào chạy ngã nhào xuống sông.
(Lò rèn)

Vô thủ, vô vĩ, vô nhĩ, vô tâm
Chốn ở sơn lâm hay ăn thịt sống.
(Cái thớt)

Gió lao xao trông ngọn thảo lay
Ban ngày dạo chốn tiền đài
Tối lại nằm kề vách ngọc
Bởi thương chúa nên thân tôi cồi cộc
Gẫm mình tàn còn một nắm xương
(Cây chổi)

Hầu hết các câu đố của người dân miền Tây ngày xưa thường liên quan đến sự vật và hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày của con người. Các câu đố thường đề cập đến công việc thường nhật, đồ dùng quen thuộc, cây cối xung quanh, và các khu vườn, bụi cỏ…

Đầu rồng đuôi phụng loe hoe
Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con.
(Buồng cau)

Thân em ở bụi ở bờ
Chồng con không có mà nhờ tiếng kêu.
(Rau má)

Ông già ngồi cạnh bờ sông
Có trăm con mắt mà không thấy đường.
(Trái khóm)

Một cột mà chín mười kèo
Vải xanh vải đỏ mà treo bốn bề.
(Cây dù)

Tròn tròn như lá tía tô
Rớt xuống ao hồ đầu ướt đuôi khô.
(Cái vá)

Chặt đầu nối nghiệp tổ tiên
Ép mỡ lấy dầu, xương thịt bỏ đi.
(Cây mía)

Hiên ngang mà đứng giữa đồng
Cầm cờ tập trận, rộn ràng tiến quân.
(Người chăn vịt)

Ngày xưa, người nông dân ở Miền Tây chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, và cuộc sống nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào các hiện tượng tự nhiên. Chính vì thế, các hiện tượng tự nhiên đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm thức của người dân nơi đây, điều này được thể hiện rõ nét trong các câu đố dân gian.

Cây cao ngàn trượng, lá rụng tứ tung
Nấu thời được, nướng thời không.
(Trời mưa)

Thoạt đẻ thì mọc hai sừng
Đến khi lưng chừng thì ễnh bụng ra.
(Trăng đầu và giữa tháng)

Xanh xanh, đỏ đỏ, vàng vàng
Bắc cầu hoa lý, nằm ngang giữa trời.
(Cầu vồng)

Một số sự vật, sự việc và hiện tượng lại được biểu hiện qua nhiều câu đố khác nhau. Ví dụ về mặt trăng, ta có:

Trên trời như lá tía tô
Đi biển, đi hồ nó cũng đi theo.

Có ai mặt đẹp như hoa
Từ bên nước Sở sang qua nước Tần

Mười lăm, mười sáu thì về
Từ ba mươi tuổi chẳng hề vãng lai.

Cùng nói về cây xương rồng:

Sanh ở đất, danh ở trời
Thịt da không có, sống đời cổ kim.

Danh tôi vốn ở trên trời
Sanh ra cái cốt ở nơi dương trần.

Cùng nói về cây dừa:

Cha mẹ có tóc, để con trọc đầu
Cha mẹ sống lâu, để con chết chém.

Một cột nhà mà chín mười kèo
Chồng thì không có mà đeo cả đùm.

Nổi bật là người dân ở nơi đây đã tạo ra những câu đố sáng tạo và trí tuệ từ những vật dùng hàng ngày. Loại câu đố này yêu cầu người giải phải sở hữu trí thông minh, tư duy nhanh nhạy, và đặc biệt là kiến thức để có thể giải quyết thành công:

Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay
(Bánh bò)

Hỏi người ngồi dựa loan phòng
Tóc mây dợn sóng có chồng hay chưa?
(Bánh hỏi)

Dĩnh dịch tròn tròn, khô dòn ướt dẻo
Dù còn tí tẹo, cũng cho rằng nhiều
(Bánh đa)

Sông tròn vành vạnh, núi lạnh như tiền
Con gái nhà tiên, đâm đầu mà lặn
(Bánh trôi nước)

Người dân ở Miền Tây sở hữu một kho truyện tiếu lâm đa dạng và phong phú. Hình tượng câu đố trở nên hấp dẫn, tinh nghịch và bất ngờ, đặc biệt là khi những câu đố tục lại có lời giải đầy tao nhã:

Con ai trắng tựa như ngà
Đem ra mà tắm giữa sông giang hà
Tắm rồi phải cởi áo ra
Mình trắng như ngà, đầu đội nón xanh.
(Cây giá)

Hai tay nắm lấy hai tay
Trèo lên cái bụng, hai chân chòi chòi.
(Đạp xe)

Phận em là gái cô bác ơi
Kẻ đi qua cọ ba bốn cái
Người đi lại cọ chín mười lần
Em không cho, mích lòng cô bác
Em cho cọ rồi ướt áo mình em.
(Cục đá mài)

Ngoài ra, các câu đố còn sử dụng hình thức chơi chữ trong câu đố của mình:

Ông lục ổng lội ngang sông
Cái đầu ổng ướt, cái mình ổng khô.
(Lục bình)

Hai tay mang gói thẳng xông
Má kêu mặc má, theo chồng cứ theo.
(Cá bạc má)

Câu đố là một hình thức hoạt động văn hóa dân gian của người dân Miền Tây xưa. Trong quá trình lao động vất vả, người dân cần nghỉ ngơi, giải trí bằng cách ca hát, hò và cũng để bày tỏ tâm tư. Bên cạnh đó, họ đặt ra nhiều câu đố để thử thách nhau và tìm niềm vui sau những giờ lao động mệt mỏi, đồng thời thỏa mãn nhu cầu tri thức. Do đó, câu đố vẫn là một hình thức hoạt động văn hóa dân gian quý giá trong kho tàng văn học dân gian của Đồng bằng sông Cửu Long, từ ngày xưa cho đến nay.

Posted in Ca dao - Tục ngữ