Menu Đóng

Chùa Dơi Sóc Trăng (Wathserâytêchô Mahatup)

Chùa Dơi Sóc Trăng (Wathserâytêchô Mahatup)

Chùa Dơi, hay còn gọi là Chùa Mã Tộc, có tên thật là Wathserâytêchô – Mahatup (phiên âm từ tiếng Khmer). Ban đầu, đồng bào Kinh và Hoa đọc tên Mahatup thành “Mã Tộc”. Người dân gọi chùa này là “Chùa Dơi” bởi vì trong chùa có nhiều dơi. Từ “Mã Tộc” cũng là địa danh (tính từ ngã ba đường cho đến lối rẽ vào Chùa Dơi) coi như là một làng nhỏ.

Địa điểm này tọa lạc tại khóm 9, phường 3, thành phố Sóc Trăng, và giáp các khu dân cư về phía đông và tây, đồng ruộng về phía nam và lộ Mai Thanh Thế tiếp giáp đường Lê Hồng Phong, thành phố Sóc Trăng về phía bắc.

Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc bao gồm nhiều công trình như: Ngôi chánh điện, Sala, nhà hội của sư sãi và tín đồ, phòng ở của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình này được xây dựng trên một khuôn viên rộng khoảng 4 hecta, với nhiều cây cổ thụ bao quanh. Khuôn viên này còn là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư đa dân tộc, bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Hoa, và Khmer.

Theo người Khmer, Mahatup có nghĩa là trận kháng cự lớn (Tup: kháng cự; Maha: lớn). Nơi đây đã chứng kiến một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống lại bọn phong kiến trong quá khứ. Sau trận đánh đó, dân chúng tản cư trở về sinh sống và cho rằng vùng đất này mang lại điềm lành (đất lành) nên xây dựng một ngôi chùa để thờ Phật. Họ cần có một đấng tối cao để bảo vệ – vì các trận đánh của phong trào nông dân ở những nơi khác đều bị thất bại, nhưng ở địa điểm này trận chiến diễn ra ác liệt nhưng họ đã giành chiến thắng.

Theo thư tịch cổ của Chùa Dơi, nơi đây được khởi công xây dựng từ năm 1569 dương lịch, tức là cách đây 440 năm, do ông Thạch Út làm chủ đầu tư. Từ trước đến nay, chùa đã trải qua nhiều lần tu sửa. Năm 1960, Chùa Dơi đã trùng tu và sửa chữa lớn tại chánh điện. Vào năm 2008, chùa đã bị cháy chánh điện, nhưng đến tháng 4 năm 2009, chánh điện đã được phục chế lại như cũ. Kiến trúc của Chùa Dơi giống như bao kiến trúc của các ngôi chùa Khmer khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Về họa tiết trang trí, điêu khắc, hội họa, chúng mang nét đặc trưng của văn hoá Khmer cổ.

Theo lời kể của các người già trong làng về lịch sử hình thành của Chùa, ngôi cổ tự đã trải qua 19 đời Đại Đức. Tuy nhiên, các văn bản được ghi trên lá thốt nốt đã bị mục nát qua nhiều năm tháng, chỉ còn lại một số ít, và đến hiện tại chỉ có thể biết được 8 đời Đại Đức sau đó (từ đời thứ 12 đến đời thứ 19):

  • Đời thứ 12: Ông Lâm Men.
  • Đời thứ 13: Ông Tham.
  • Đời thứ 14: Ông Ngô Sển.
  • Đời thứ 15: Ông Sâm.
  • Đời thứ 16: Ông Lét.
  • Đời thứ 17: Ông Thạch Chia.
  • Đời thứ 18: Ông Thạch Kiều Đốc.
  • Đời thứ 19: Ông Kim Rên.

Đặc biệt, loài dơi ở đây rất phổ biến và tồn tại cùng với các đời Đại Đức cho đến ngày nay. Theo lời kể của người già trong làng, loài dơi đã sống ở đây từ trước khi Chùa được xây dựng.

Theo một số người Khmer miêu tả, loài Dơi ở đây có các đặc điểm sau:

Dơi là họ thú có cánh bay, có những con lớn nặng từ 700 – 1.000g, với cánh căng ra hai phía dài từ 1,1 m -1,5 m, tốc độ bay nhanh nhất từ 50-60 km/h. Khác với loài Chim, Dơi là động vật có vú, vú nằm hai bên nách cánh, có mỏ giống như chó Phóc, miệng có răng sắc để gặm nhấm. Dơi ăn trái cây, không ăn lúa hay thịt cá. Chúng đi ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày.

Thường thì vào mùa khô, khi thời tiết nóng nực, thiếu nước và trái cây ít, Dơi sẽ tổ chức đi ăn xa tìm nơi có nhiều trái cây và nước ngọt. Nếu chúng đi tìm thức ăn ở quá xa, không thể bay về Chùa trước lúc bình minh, chúng phải ngủ lại nơi đó và tiếp tục đường về từng chặng đường vào tối hôm sau. Trong những thời điểm thời tiết như thế, đàn Dơi chỉ còn lại ở Chùa khoảng 1/3 để giữ chỗ.

Vào khoảng cuối tháng tư, khi thời tiết thay đổi, tiếng sấm đầu mùa mưa báo hiệu, mưa bắt đầu rơi, cây trái phát triển và Dơi bắt đầu thay màu lông. Lúc đó, chúng quay về Chùa chuẩn bị cho mùa sinh sản. Từ đó, bà con xung quanh vùng xem chu kỳ sinh sản của Dơi như thời điểm vào mùa và chuẩn bị giống má, đắp bờ, nhổ cỏ, cày ải, cuốc bẩm chờ mưa để gieo hạt.

Dơi không ấp trứng giống như loài chim khác nên chúng không xây tổ. Dơi có hai chân, mỗi bàn chân có 5 ngón và có móc nhọn cong giống như móc câu. Trên bả vai mỗi cánh có một lưỡi móc. Chúng không đứng đậu giống như những loài chim khác, mà sử dụng hai chân để móc lấy cành cây và quay lộn đầu xuống để treo mình lủng lẳng. Sau đó, chúng kết lại với nhau như những chùm trái cây. Khi muốn thải phân hoặc nước thải, chúng dùng sức bật mạnh hai phía cánh để tung thân lên, mở móc cánh và cấu chặt cành cây giữ thăng bằng, sau đó bắt đầu tuôn nước thải hoặc phân xuống. Khi xong, chúng trở lại trạng thái bình thường.

Dơi sinh sản vào đầu tháng năm dương lịch. Khi sắp đẻ, một cánh dơi móc lấy nhánh cây, một cánh khác đỡ con và ôm chặt vào lồng ngực. Vài giờ sau khi sinh, dơi con mở mắt và bắt đầu đói. Chúng bú mẹ giống như chó con mới sinh và trong đêm đó, dơi mẹ đi kiếm ăn bình thường và con dơi con được ôm ghì sát vào lồng ngực.

Dơi con lớn rất nhanh. Hơn một tháng tuổi, chúng đã biết nắm níu nhánh cây và cánh của chúng cũng bắt đầu mọc và mở rộng. Sức nặng dơi con tăng dần lên. Lúc này, dơi mẹ không còn đủ sức để mang con nữa. Chúng dạy cho dơi con nắm níu nhánh cây và để chúng ở lại khi đi ăn. Với bản năng sẵn có, dơi con tập chuyền từ nhánh cây gần đến nhánh cây xa. Qua nhiều lần tập luyện, chúng từ từ biết vỗ cánh để bay. Chuyến bay đầu tiên của chúng chỉ từ cây thấp, khoảng cách vài ba mét. Khi vững vàng hơn, chúng bay sang ngang và bay cao hơn. Chúng tập bay ban đêm, đan xen nhau và trông rất đẹp.

Thỉnh thoảng trong lúc tập bay, có một vài con bị rơi xuống đất không bay lên được. Chúng lê tìm nơi có cây cao và dùng móc cánh ở bả vai để câu chặt nhánh cây. Chúng dùng sức mạnh của hai cánh để đưa hai chân câu chặt nhánh cây, sau đó buông thòng trúc đầu xuống và dùng sức bật mạnh để mở rộng hai cánh bay lên.

Khi dơi mẹ xuống cứu con bị rớt xuống đất, một cánh chúng ôm ghì chặt lấy con và áp vào lồng ngực. Một cánh chống xuống đất và bò nghiêng để tìm đến nơi có cây cao để cất cánh.

Dơi cũng có tình cảm nhau, đặc biệt là dơi mẹ. Trước khi đi ăn, dơi mẹ cho con bú và khi trở về, chúng đều mang mồi về cho con. Sau khi chào đời và tập bay, dơi con bắt đầu bay được vào tháng thứ 3, nhưng vẫn còn yếu, nên dơi mẹ dẫn con đi ăn ở những nơi gần. Nhờ sự chăm sóc của dơi mẹ, dơi con trưởng thành nhanh chóng và gia nhập vào đàn một cách dễ dàng, giúp đàn dơi ngày càng phát triển. Hiện tại, không ai biết chính xác số lượng dơi trong đàn tại “Chùa Dơi”, chỉ có thể ước lượng khoảng vài vạn con. Tuổi thọ của chúng không được theo dõi, vì chúng không trở về đầy đủ. Đôi khi, các nhà sư phát hiện vài con dơi bị thương hoặc chết do bị săn bắt hoặc đập đầu vào vật cứng.

Dơi là động vật có phản xạ kỳ diệu, có khả năng tiếp nhận và dự đoán được những tín hiệu, hiện tượng có thể gây nguy hiểm đến sinh mạng của chúng. Chúng là loài động vật sống có nề nếp, có tổ chức thành bầy đàn. Khi đi kiếm ăn, dơi đầu đàn bay lên dẫn đầu, sau đó là những con khác lần lượt bay theo nhập đàn, xếp hàng, lượn vài vòng trên bầu trời khu vực Chùa, như thể cầu khẩn đức Phật ban phước trước khi đi kiếm ăn.

Quang cảnh hoàng hôn ở “Chùa Dơi” rất rộn ràng, với tiếng dơi gọi đàn và tiếng vỗ cánh va chạm vào cành cây, tạo nên không khí khẩn trương. Mỗi đàn dơi lượn bay trên bầu trời hoàng hôn và sau vài lần lượn bay, chúng dần dần lẫn vào bóng đêm và bay theo hướng đã định, về đường nào thì đi đường đó. Thời tiết tốt thì dơi bay cao, thời tiết xấu thì chúng bay thấp.

Dơi đi ăn suốt cả đêm đến bình minh rồi trở về, nhưng chúng không bao giờ bay qua nóc ngôi chánh điện, cả khi đi và về. Điều đặc biệt hơn là dơi chỉ đậu trên những tán cây trong khuôn viên của Chùa. Những tán cây bên ngoài khu dân cư sát ngay Chùa thì chúng không đậu. Các sư giải thích rằng đó là chuyện thường, vì trong khuôn viên của Chùa, quang cảnh yên tịnh, dơi thích nghi với môi trường hoang dã gần gũi với thiên nhiên. Còn bên ngoài, chúng bị vây đuổi và săn bắt, nên không trú ngụ. Một điều mà không ai lý giải được là dơi không ăn trái cây vùng lân cận cũng như trái cây trong khuôn viên Chùa, mà phải đi ăn rất xa.

Những hiện tượng tuyệt vời của đàn dơi ở “Chùa Dơi” đã truyền đi tiếng đồn xa, khiến du khách từ khắp nơi đều mong muốn tới viếng thăm để chứng kiến bằng mắt mình. Từ thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, “Chùa Dơi” đã nổi tiếng với những điều kỳ bí, khiến khuôn viên của chùa được cách ly với thế giới bên ngoài. Do đó, cán bộ của chúng tôi thường phải tới đây để thực hiện các hoạt động cách mạng.

Đến ngày nay, “Chùa Dơi” vẫn là một điểm đến nổi tiếng với phong cảnh lãng mạn, gần gũi với thiên nhiên và có quần thể kiến trúc tôn giáo chính thống của dân tộc Khmer. Bầy dơi kỳ bí (theo quan niệm tín ngưỡng của từng dân tộc) càng thêm thú vị cho du khách khiến lượng khách đến tham quan chùa càng ngày càng đông đúc.

Theo quan niệm của người Hoa, con dơi được coi là điềm phúc, hay còn gọi là phước, trong bộ tam phúc của họ: “Phước-Lộc-Thọ”. Trong đó, ông Phúc (Phước) ứng với con dơi, ông Lộc ứng với con nai, ông Thọ ứng với cây tùng, do đó, người Hoa xem hình tượng con dơi là biểu tượng của sự may mắn. Tuy nhiên, tại “Chùa Dơi”, đàn dơi thường đậu quay đầu ngược xuống, tạo thành chữ “phúc” (phước) treo ngược, hay còn gọi là “Phú táo” trong tiếng phát âm của người Hoa, có nghĩa là “phúc đến rồi”. Vấn đề này cũng được ông Trần Bình đăng trên tạp chí “Kiến thức ngày nay” vào năm 1993 (Xuân Quý Dậu, trang 62-63). Vì vậy, phần lớn khách tham quan tại đây là người Hoa, và người Hoa ở Sóc Trăng cũng có quan niệm tương tự.

Vào năm 1990, một chiếc tàu thám hiểm đại dương do ông Yves Cousteau làm thuyền trưởng và con trai ông, Jack Cousteau, tham gia đã đến “Chùa Dơi” để nghiên cứu động vật sống trong môi trường thiên nhiên. Ông Cousteau đã cho máy bay trực thăng bay quanh các tán cây trong khuôn viên chùa, đàn dơi đã bay lên rợp cả một góc trời, đoàn nhân viên của ông Yves Cousteau đã ghi lại hình ảnh bằng camera và máy ảnh để làm tài liệu nghiên cứu.

Sự kiện này là một hiện tượng độc đáo chỉ có ở chùa Dơi. Heo năm móng và dơi là những loài động vật gần gũi với chùa, không chỉ sống trên các tán cây mà còn được các vị sư chăm sóc và thuần hóa. Vào khoảng năm 1980, vị Đại Đức đời thứ 17 tại chùa – ông Thạch Chia – có tài nuôi và thuần chủng dơi. Dơi thường quấn quýt bên ông như những chú chó, chú mèo được nuôi trong nhà. Đặc biệt, khi ông đi vắng, dơi ở lại phòng khách của ông.

Khi đến khuôn viên chùa, chúng ta có thể nhìn thấy cổng chùa hướng về phía Tây – Bắc. Cổng chùa được xây dựng theo kiến trúc tôn giáo và được trang trí bằng các hoạ tiết hình cánh sen và hoa cà ri được thiết kế độc đáo.

Ngôi chính điện là công trình kiến trúc tiêu biểu trong quần thể kiến trúc “Chùa Dơi”. Ban đầu được xây dựng từ năm 1569 bằng gỗ và được lợp mái bằng lá dừa nước. Chùa đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt là vào năm 1960 khi ngôi chính điện được thay đổi toàn bộ chất liệu bằng bê tông thay thế cho gỗ và mái ngói thay lá dừa nước. Ngôi chính điện có chiều dài 20m8 và chiều rộng 11m3, được xây trên nền cao hơn mặt đất tự nhiên 1m và bao quanh là đá kết xi-măng với nền rộng 30m7 và dài 37m. Sân chính điện được trát xi-măng, có vòng rào lan can và có 4 ngõ vào. Vòng rào lan can cách ngôi nhà chính điện mỗi hướng là 2m2. Nền chính điện cao hơn sân chính điện 0,7m. Mặt bằng chính điện hình chữ nhật trải dài theo hướng Đông Tây, cửa chính quay ra hướng đông.

Phần mái chính điện là một kết cấu đặc biệt, gồm 4 hệ thống mái chồng lên nhau với khoảng cách nhất định. Trên 4 mái chồng lên nhau đều có trang trí hình tượng con rồng ở các góc. Hình tượng rồng của người Khmer khác với người Hoa và người Việt, đầu rồng có sừng uốn lượn, mảnh mai, thân rồng theo mô típ của loài cá Poon – Co. Rồng không có chân, trên lưng giương những đao mác nhọn, cong về phía đuôi, hình tượng rồng được bố trí theo chiều dài đòn dong. Mái tiếp giáp với cột trang trí hình tượng chim Cay – No, thể hiện sức mạnh như chống đỡ cả bầu trời và che chở cho con người ở trần gian.

Bên trong chánh điện có tượng Phật sơn son thiếp vàng, cao khoảng 2m, trên bệ thờ cao khoảng 1,5m được đắp nổi với nhiều hoa văn hình cánh sen. Ngoài tượng Phật lớn còn có nhiều tượng Phật nhỏ khác.

Bên trên bệ thờ được làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng, trang trí hoa văn hình chim muông, hoa lá theo mô típ đình, chùa truyền thống của người Việt. Đặc biệt, phía dưới bệ thờ ở hai bên tượng Phật có hai họa tiết hình con dơi đối xứng nhau. Trần chính điện được trang trí bằng những mảng tranh sơn dầu với hình ảnh tiên nữ đang múa trên bầu trời, tạo nên một không gian sống động và trang nghiêm cho nội thất.

Đối diện với ngôi chính điện về phía Tây là dãy nhà Sa – La (nhà hội của sư sãi), phòng của sư trụ trì, phòng khách và rải rác xung quanh ngôi chính điện là những tháp đựng cốt tro người chết, mỗi tháp mang kiểu dáng khác nhau. Toàn bộ quần thể kiến trúc được cân đối và hài hoà với những bố cục gọn gàng, đường nét uyển chuyển đầy ấn tượng, tạo nên cảm giác như đang đứng giữa một rừng hoa văn. Tinh thần lao động cần cù và sáng tạo của người Khmer được thể hiện rõ qua đôi bàn tay khéo léo trong thiết kế này.

Chùa có quần thể kiến trúc được bao quanh bởi những tán cây cổ thụ được các vị sư chăm sóc hàng ngày. Khách tham quan có thể chiêm ngưỡng những chú dơi treo mình lủng lẳng trên các nhánh cây trong khuôn viên chùa, tạo nên một cảnh tượng tuyệt đẹp như cây trái trúng mùa với những chùm quả nặng trĩu. Không khí trong lành và thanh tịnh, chỉ có tiếng gió xào xạc và thỉnh thoảng còn kết hợp với tiếng kêu chí chít của những chú dơi con tìm mẹ, tất cả tạo nên một bản hoà tấu với nhạc điệu du dương của thiên nhiên làm say mê lòng người.

Các hiện vật trong chùa dơi hiện nay chủ yếu là tượng các Phật như tượng Phật Thích Ca ngồi thiền định cao 2m bằng xi-măng và nhiều bức tượng nhỏ khác được làm bằng xi-măng và các vật liệu khác do phật tử cúng chùa. Ngoài ra, còn có khung cửa võng (bao lam) bằng gỗ được sơn son thiếp vàng và chạm trổ hình chim muông, hoa lá, đặc biệt có hoạ tiết hình những chú dơi. Chùa còn có một cái giường được chạm hoa lá tinh sảo, sơn son thiếp vàng, và hai tủ lớn được chạm hoa văn theo mô típ cổ truyền của người Khmer. Đặc biệt hơn cả là trong sảnh của đại dức trụ trì và phòng khách còn có bức tượng của một đại đức đã viên tịch với kích thước giống như người thật trong tư thế thiền định, được làm bằng xi-măng, tạo nên không gian phòng khách ấm cúng và sinh động, hấp dẫn.

Chùa Dơi là một quần thể kiến trúc đẹp, mang giá trị thẩm mỹ cao. Ngoài chức năng đáp ứng nhu cầu tâm linh, chùa còn hướng con người đến sự chân – thiện – mỹ, khuyến khích làm điều đúng, làm việc thiện, tích lũy phúc đức. Đây là một ví dụ nổi bật cho nghệ thuật tạo hình Khmer đồng bằng sông Cửu Long, mang tính tôn giáo. Tuy nhiên, Phật giáo Nam tông trong xã hội Khmer hiện nay không chỉ là tôn giáo thoát tục, lánh xa cuộc sống, mà còn hoà nhập vào cuộc sống đời thường với phương châm “tốt đạo, đẹp đời”.

Cái đẹp và sức thu hút của Chùa Dơi nằm trong cảnh quan gần gũi với thiên nhiên, với một quần thể kiến trúc mở, hoà quyện với môi trường sống của con người, thực vật và động vật. Cộng đồng dân cư ở đây có sự giao lưu giữa ba dân tộc Việt – Khmer – Hoa kết hợp với tinh hoa văn hoá và nghệ thuật trong cuộc sống, học hỏi lẫn nhau và cùng phát triển. Chùa Dơi cũng là trung tâm sinh hoạt giáo dục – văn hoá và tụ điểm sinh hoạt văn hoá của cộng đồng cư dân địa phương. Vào ngày 12 tháng 02 năm 1999, Bộ Văn hóa – Thông tin đã ra Quyết định số 05/1999/QĐ-BVHTT công nhận Chùa Dơi là di tích nghệ thuật cấp quốc gia.

Chùa Dơi là một môi trường sinh thái kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên, văn hoá và cuộc sống đời thường. Đây cũng là một thắng cảnh và địa điểm du lịch, tham quan và hành hương nổi tiếng của du khách trong và ngoài tỉnh. Danh lam thắng cảnh Chùa Dơi Sóc Trăng luôn sẵn sàng đón khách thập phương ghé thăm và mang đến cho họ nhiều bất ngờ và trải nghiệm thú vị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer – NXB Tổng hợp Hậu Giang 1998.
  2. Tư liệu “Đất nước con người TX Sóc Trăng” – Ban Tuyên giáo thị xã Sóc Trăng.
  3. Bán nguyệt san “Thanh niên” – Số: 128, trang 8 – 9.
  4. Kiến thức Ngày nay – Số đặc biệt Xuân Quí Dậu 1993, trang 62 – 63.
  5. Tư liệu chép tay và trên lá thốt nốt tại Chùa Dơi.
  6. Văn hoá Sóc Trăng – Báo Xuân Ất Hợi 1995.
  7. Mấy đặc điểm Văn hoá Đồng bằng sông Cửu Long – Viện Văn hoá xuất bản, 1984.
  8. Điền dã, phỏng vấn một số già làng và sư sãi tu tại Chùa Dơi, năm 2009.
Posted in Địa danh

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *