Menu Đóng

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và Bản Dạ Cổ Hoài Lang

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và Bản Dạ Cổ Hoài Lang

Vào một đêm tối cuối năm 1896, 20 gia đình nông dân nghèo ở xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An, không thể chịu đựng được sự hà khắc từ bọn quan lại địa phương, đã quyết định xuống ghe và hành trình xuôi về vùng Bạc Liêu để lập nghiệp. Trong số họ có gia đình ông Cao Văn Giỏi, cha của Cao Văn Lầu – khi đó mới chưa đầy 5 tuổi (sinh năm 1892).

Vì sao “Dạ cổ hoài lang” ra đời?

Cha của Cao Văn Lầu là người trọng đạo nho, ông “không sợ nghèo, chỉ sợ không giữ được đạo”. Khi đến vùng đất mới và tạm trú tại chùa Vĩnh Phước An, ông gửi Cao Văn Lầu vào chùa học chữ nho. Sau hai năm học, khi phong trào chữ Quốc ngữ phát triển, Cao Văn Lầu chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Tài năng và thông minh, ông được thầy và bạn mến mộ. Tuy nhiên, đến lớp nhì (bây giờ là lớp 4), ông phải dừng việc học do hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Tuổi thơ của Cao Văn Lầu cùng với cây đàn
Tuổi thơ của Cao Văn Lầu cùng với cây đàn

Về sau, cha của Cao Văn Lầu đã gửi con học đàn với thầy giáo Lê Tài Khị (tục gọi là Nhạc Khị) ở xóm Rạch Ông Bổn. Thầy Nhạc Khị nổi tiếng với môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi khả năng chơi đàn điêu luyện. Nhờ chăm chỉ và sáng dạ, Cao Văn Lầu nhanh chóng thành thạo các nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống… và trở thành nhạc sĩ trụ cột trong ban nhạc của thầy.

Thầy dạy đàn Hai Khị của Cao Văn Lầu
Thầy dạy đàn Hai Khị của Cao Văn Lầu

Ban nhạc hoạt động kết hợp giữa nhạc lễ và đờn ca tài tử, giúp danh tiếng của Cao Văn Lầu ngày càng vang xa. Soạn giả Mộng Vân, một người bạn đồng môn, mời ông về làm nhạc trưởng cho gánh hát của mình. Nhờ công việc này, ông có tiền gửi về nuôi cha mẹ.

Chú bé Sáu Lầu những tháng năm sinh sống ở chùa Vĩnh Phước An
Chú bé Sáu Lầu những tháng năm sinh sống ở chùa Vĩnh Phước An

Sau vài năm theo đoàn hát, khi đã hơn 21 tuổi, cha mẹ bắt Cao Văn Lầu về cưới vợ. Tuân theo lời cha mẹ, ông kết hôn với cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phác ở vùng biển Bạc Liêu.

Để có tiền cưới vợ, Cao Văn Lầu phải vay 80 đồng từ bà Sư Chơn với lãi suất cao, mỗi ngày phải trả 1,6 đồng. Sau đám cưới, cả hai chịu khó vào rừng lấy củi, bắt tép để kiếm tiền trả nợ. Ba năm trải qua nhọc nhằn, người vợ gầy yếu không thể sinh con.

Nhưng Sáu Lầu và Thị Tấn lấy nhau 3 năm vẫn chưa có con nên mẹ chồng luôn nhắc nhở
Nhưng Sáu Lầu và Thị Tấn lấy nhau 3 năm vẫn chưa có con nên mẹ chồng luôn nhắc nhở

Theo phong tục xưa: “Tam niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm phong kiến khắc nghiệt. Cao Văn Lầu cũng không ngoại lệ, khi mẹ ông bảo: “Con hãy tìm vợ khác để nối dõi tông đường. Đó là bổn phận hiếu thảo của con và mẹ cũng hoàn thành trách nhiệm với nhà chồng”. Nghe mẹ, ông chật vật giữa lòng hiếu và tình yêu.

Chiều ấy, vợ chồng cùng nhau đến bìa ruộng, ôm nhau khóc và nước mắt ngậm ngùi chia tay. Thấy vợ chỉ mang theo gói quần áo cũ, Cao Văn Lầu lấy khăn rằn quấn cổ, đội lên đầu cho vợ rời đi. Vợ lau nước mắt, bước chân chần chừ ra đồng như hướng về nơi xa xăm. Sau khi vợ ra đi, ông như người mất hồn.

Tam niên vô tử bất thành thê
Tam niên vô tử bất thành thê

Một hôm, ông đến nhà nhạc phụ tìm vợ, mới biết vợ không trở về. Lòng ông càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng vẫn không thấy người vợ hiền. Suốt một năm trôi qua, ông đành chịu đựng nỗi buồn sâu lắng. Mỗi chiều, ông mang đàn ra bìa ruộng, nơi họ từng chia tay. Nhìn ra đồng, ông hình dung bóng vợ lang thang giữa trời đêm. Ông chơi đàn theo tâm trạng của mình, từ “Xuân nữ” đến “Nam ai” rồi “Trường tương tư”, nhưng lòng không hề giảm bớt nỗi sầu thương.

Theo lời kể của ông Cao Kiến Thiết, con trai trưởng của Cao Văn Lầu, ông từng nghe cha mình tâm sự với bạn bè rằng: “Lúc ấy tôi nghĩ vợ mình đang ở đâu? Chắc chắn vợ yêu tôi nhiều hơn tôi yêu vợ. Số phận của vợ giống như nàng Tô Huệ, yêu chồng quá nên dệt bức Chức cẩm hồn văn dâng lên vua, hay nàng Tô Thị chờ chồng đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài Hoài Lang (nhớ chồng)”.

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết Dạ Cổ Hoài Lang
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu viết Dạ Cổ Hoài Lang

Sau nhiều tháng làm bạn với cây đàn, ông bất chợt nghĩ: tiếng trống đêm vang lên trong khi chơi bài Hoài Lang. Ông quyết định kết hợp hai chữ Dạ Cổ (tiếng trống đêm) vào bản nhạc Hoài Lang, tạo thành Dạ Cổ Hoài Lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng). Bản nhạc Dạ Cổ Hoài Lang trở thành tuyệt phẩm, khiến người nghe xúc động.

Nghệ sĩ Lâm Tường Vân cho biết, Dạ Cổ Hoài Lang là tác phẩm đầy cảm xúc của nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu. Vào đêm rằm tháng 8/1919, tại làng Vĩnh Hương, tổng Hòa Thạnh (nay thuộc phường 2, thị xã Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu, ông chính thức công bố tác phẩm bất hủ của mình. Người may mắn đầu tiên được học bài Dạ Cổ Hoài Lang là nghệ sĩ Bảy Cao, tiếp theo là Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt các nghệ sĩ khác và người hâm mộ.

Cao Văn Lầu và người vợ là Trần Thị Tấn - người là nguồn cảm hứng cho Cao Văn Lầu sáng tác khúc Dạ cổ hoài lang
Cao Văn Lầu và người vợ là Trần Thị Tấn – người là nguồn cảm hứng cho Cao Văn Lầu sáng tác khúc Dạ cổ hoài lang

Sau khi Dạ Cổ Hoài Lang ra đời, nỗi buồn vẫn chưa dứt. Ông quyết tâm tìm vợ và cuối cùng gặp lại vợ ẩn mình sau mái chùa làm công quả. Họ hạnh phúc tái ngộ như được tái sinh. Từ đó, ông thường xuyên thăm vợ. Sau đó, vợ thông báo đã mang thai, ông vô cùng hạnh phúc nhưng cũng lo lắng vì lệnh mẹ. Dù vậy, ông vẫn quyết tâm thưa với mẹ. Mẹ ông nghe qua như bắt được vàng, hối thúc con trai chuẩn bị ghe rước con dâu trở về.

Bài ca vua của sân khấu cải lương

Từ khi bản Dạ Cổ Hoài Lang ra đời, bài hát nhanh chóng trở thành một tác phẩm yêu thích, được coi là bài ca chính thống trên sân khấu cải lương Nam Bộ. Qua các giai đoạn phát triển, bài hát ngày càng trở nên hay hơn và có nhiều nhịp khác nhau. Năm 1924, tăng lên 4 nhịp; 1934 – 1944, tăng lên 8 nhịp; 1945 – 1954, tăng lên 16 nhịp; 1955 – 1964, tăng lên 32 nhịp và từ 1965 đến nay, đạt 64 nhịp. Mỗi lần phát triển, Dạ Cổ Hoài Lang không chỉ giữ nguyên bản mà còn biến đổi hình thức, góp phần làm mới cải lương.

Đặc biệt, từ thập niên 1960, soạn giả Viễn Châu đã kết hợp Tân Nhạc vào Vọng Cổ, tạo ra bản Tân Cổ Giao Duyên, thu hút khán giả yêu thích cả tân và cổ nhạc. Điều này chỉ có ở Vọng Cổ, bởi vì giai điệu du dương và lời ca bình dị phù hợp với tâm hồn người Nam Bộ. Lúc buồn, Vọng Cổ giúp giải tỏa tâm sự và vơi đi nỗi tủi; lúc vui, Vọng Cổ góp phần tăng thêm niềm hân hoan. Chính bản Vọng Cổ đã mang lại vinh quang cho nhiều thế hệ nghệ sĩ, danh ca, danh cầm và soạn giả cải lương, đồng thời khơi nguồn dòng chảy cho lịch sử âm nhạc quốc gia.

GSTS Trần Văn Khê
GSTS Trần Văn Khê

GS – TS. Trần Văn Khê, khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài bản nào được như Dạ cổ hoài lang biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá nhân đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể”.

Tại một hội thảo cách đây chưa lâu, các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ, soạn giả tỏ ra lạc quan rằng tương lai bản Dạ cổ hoài lang sẽ là di sản văn hóa thế giới. Trước mắt, GS – TS. Trần Văn Khê, tác giả Lê Duy Hạnh – Chủ tịch Hội Sân khấu TP.HCM, ThS. Nguyễn Văn Tấn, Vụ trưởng, Giám đốc cơ quan đại diện Bộ VHTTDL tại TP.HCM đề nghị tỉnh Bạc Liêu nên khần trương lập hồ sơ đề nghị Bộ VHTTDL xếp hạng cho bản Dạ cổ hoài lang là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Chúng tôi tin rằng khi ấy nó không còn là di sản văn hóa của người dân Bạc Liêu phóng khoáng, nghĩa tình, mà nó sẽ trở thành di sản của cả dân tộc. Mong lắm thay!

Bài Dạ cổ hoài lang

1. Từ là từ phu tướng
2. Báu kiếm sắc phán lên đàng
3. Vào ra luống trông tin nhạn
4. Năm canh mơ màng
5. Em luống trông tin chàng
6. Ôi! Gan vàng thêm đau
7. Đường dầu xa ong bướm
8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9. Còn đêm luống trông tin bạn
10. Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu
11. vọng phu vọng luống trông tin chàng
12. Lòng xin chớ phụ phàng
13. Chàng là chàng có hay
14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15. Biết bao thuở đó đây sum vầy
16. Duyên sắc cầm đừng lợt phai
17. Là nguyện – cho chàng
18. Hai chữ an – bình an
19. Trở lại – gia đàng
20. Cho én nhạn hiệp đôi.

Lịch sử ra đời bài Vọng Cổ

Posted in Nghệ thuật

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *