Nghệ sĩ Thành Được, tên thật là Châu Văn Được, sinh năm 1938 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Cha mẹ anh là những phú nông sở hữu ruộng vườn tại xã Nhơn Mỹ, Kế Sách. Sau khi hoàn thành tiểu học tại huyện Kế Sách, Thành Được đã theo cậu ruột mình, người làm bầu cho gánh hát cải lương Thanh Cần, để học hát cải lương.
Gánh Thanh Cần là một gánh hát trung ban, chuyên diễn ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ; Thành Được nhờ có giọng ca tốt, sắc diện đẹp trai, lại được diễn trên sân khấu nhà nên nhanh chóng trở thành kép chánh, được khán giả Hậu Giang ái mộ.
Năm 1957, khi bộ tứ Bầu gánh Kim Thanh gồm Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thúy Nga và Thanh Tao tan rã và giải tán đoàn cải lương Kim Thanh – Út Trà Ôn, nữ nghệ sĩ Thúy Nga đã tụ hợp một số nghệ sĩ cũ của Kim Thanh để thành lập đoàn Thúy Nga – Phước Trọng. Thúy Nga đã mời nghệ sĩ Thành Được đảm nhận vai trò kép chánh với hợp đồng trị giá 150.000 đồng trong hai năm.
Đoàn cải lương Thúy Nga Phước Trọng đã khai trương bằng vở tuồng Ngưu Lang – Chức Nữ của soạn giả Kiên Giang. Trong vở này, Thành Được đảm nhiệm vai Ngưu Lang, còn nữ nghệ sĩ Bích Sơn vào vai Chức Nữ. Tuy nhiên, vở tuồng chỉ đạt được thành công tương đối. Sau đó, đoàn đã trình diễn vở cải lương “Khi Hoa Anh Đào Nở” của Hà Triều Hoa Phượng, với sự tham gia của kép chánh Thành Được trong vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn. Vở tuồng này đã gặt hái thành công lớn về mặt nghệ thuật và tài chính.
Lúc bấy giờ, khán giả đang rất ưa thích các phim hát bóng như Địa Ngục Môn và Người Phu Xe của Nhật. Do đó, các vở sân khấu cải lương lấy cảm hứng từ tác phẩm của Nhật Bổn như Khi Hoa Anh Đào Nở, Đợi Anh Mùa Lá Rụng, Cầu Sương Thiếp Phụ Chàng cũng rất hấp dẫn và thu hút được sự quan tâm của khán giả.
Lúc bấy giờ, thành công của đoàn cải lương Thúy Nga – Phước Trọng trong làng sân khấu được giới báo chí kịch trường gọi là một “hiện tượng” đặc biệt và đáng ghi nhớ. Đầu tiên là sự thành công của hai soạn giả trẻ Hà Triều – Hoa Phượng, chỉ mới có vài tác phẩm đầu tay, nhưng đã gặt hái thành công vang dội với vở “Khi Hoa Anh Đào Nở”. Hiện tượng thứ hai là sự trỗi dậy của kép trẻ Thành Được, một giọng ca thiên phú, một lối diễn xuất chín chắn và một nghệ sĩ kế thừa phong cách diễn xuất “Đẹp và Thật” của nghệ sĩ tiền phong Năm Châu.
Thêm nữa, trong khoảng thời gian từ 1955 đến 1968, xuất hiện nhiều tác giả tài ba như Hà Triều Hoa Phương, Thiếu Linh, Kiên Giang, Nguyễn Phương, Qui Sắc, Hoàng Khâm, Thu An,… Những tác giả mới này đã khai thác tối đa khả năng hát của các nghệ sĩ trẻ mới nổi, tạo ra một thế hệ diễn viên mới với phong cách biểu diễn tươi mới hơn, cùng với lối hát vọng cổ quyến rũ hơn so với các nghệ sĩ đàn anh. Nhiều nghệ sĩ trẻ nổi tiếng trong thời kỳ 1956-1968 bao gồm Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Út Hiền, Thanh Hải, Út Nhị, Minh Tấn, Thanh Tú, Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, và Dũng Thanh Lâm.

Các nghệ sĩ nữ nổi danh trong thời gian này bao gồm Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Hồng Nga, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Bích Sơn, Ngọc Bích, Bích Hạnh, Thanh Kim Huệ, Hà Mỹ Xuân, Trương Anh Loan, và Kiều Phượng Loan,…
Ba nghệ sĩ nổi tiếng nhất vào thời điểm đó bao gồm Hữu Phước, Thành Được và Hùng Cường. Trong bộ ba này, Thành Được có giọng ca truyền cảm nhưng chưa bằng Hữu Phước và cao hơn Hùng Cường. Thành Được cũng đẹp trai hơn Hữu Phước. Cả Hữu Phước và Thành Được đều có giọng ca vàng, khả năng diễn xuất và ca hát tốt hơn Hùng Cường và có nhiều cơ hội hơn để thể hiện tài năng của mình do được nhiều nhà soạn giả tài danh trong thời đại cung cấp các vở tuồng, giúp cho Hữu Phước và Thành Được được nhiều cơ hội để thể hiện tài năng diễn xuất và ca hát của mình.
Ký giả Nguyễn Ang Ca, hay còn được biết đến với biệt danh “Ngọc Huyền Lan”, đã đặt biệt danh “Giọng ca vàng” cho Hữu Phước và biệt danh “Kép hát thượng thặng” cho Thành Được. Sau khi rời khỏi nhóm hát Kim Thanh – Út Trà Ôn vào năm 1957, bà Kim Chưởng đã tách ra và thành lập gánh hát Hoa Anh Đào – Kim Chưởng. Bà đã ký hợp đồng với nghệ sĩ nữ Út Bạch Lan và cặp đôi chánh Thành Được. Bà Kim Chưởng bắt đầu từ gánh hát Bầu Bòn và có kiến thức cơ bản về nghệ thuật biểu diễn. Cô là một nữ diễn viên tài năng qua nhiều đoàn hát lớn, do đó khi bà thành lập gánh hát của mình, bà đã đào tạo và chỉ dạy các nghệ sĩ trong đoàn của mình theo phong cách mà bản thân đã học hỏi được từ trước đó.
Thành Được và Út Bạch Lan đã có may mắn được học nghệ thuật hát từ danh sư Kim Chưởng ngay từ khi bước chân vào nghề. Đoàn hát của bà Kim Chưởng, được biết đến với tên gọi “Anh Hùng Lưu Diễn”, có những diễn viên giỏi tay nghề như Thành Được, Út Bạch Lan, Kim Nên, Mộng Thu, Trường Xuân, Nam Hùng, Thanh Sơn và Hề Minh. Cặp đôi diễn viên “thin sắc lưỡng toàn” Thành Được và Út Bạch Lan đã để lại ấn tượng mạnh với khán giả qua nhiều vở kịch như: “Chưa Tắt Lửa Lòng”, “Bên Đồi Trăng Cũ”, “Thuyền Ra Cửa Biển”, “Áo Trắng Nàng Mộng Trinh”, “Nữa Bản Tình Ca”, “Người Đẹp Thành Bát Đa” và nhiều tác phẩm khác, để lại dấu ấn khó quên trong lòng khán giả.
Trên sân khấu của đoàn hát Kim Chưởng, cặp đôi diễn viên tài sắc Thành Được – Út Bạch Lan đã yêu nhau và tổ chức một đám cưới lộng lẫy với nghi thức hôn thơ giá thú. Cô Phùng Há, chủ hôn đàn trai và bà Kim Chưởng, chủ hôn đàn gái cũng đã tham dự trong sự kiện này. Đám cưới đã thu hút sự chú ý của báo chí và các ký giả kịch trường khi đó, vì đây là lần đầu tiên trong giới nghệ sĩ cải lương có một đám cưới với nghi thức hôn thơ giá thú.
Đoàn hát Kim Chưởng, được biết đến với danh hiệu “Anh Hùng Lưu Diễn”, thường đi hát ở các tỉnh Hậu Giang, miền Đông và miền Trung trong nhiều tháng liền, ít khi diễn tại Sài Gòn. Tuy nhiên, đoàn hát của họ chuyên biểu diễn những vở tuồng loại hương xa và kiếm hiệp, trong khi đó, khán giả ở Sài Gòn thích xem những vở tuồng xã hội.
Đoàn hát Thanh Minh chuyên biểu diễn những vở tuồng xã hội và thường biểu diễn tại các rạp ở Sài Gòn, phù hợp với ý muốn tiến thân của Thành Được và Út Bạch Lan. Cả hai nghệ sĩ đã trình bày nguyện vọng của mình với bà Kim Chưởng và bà đã đồng ý cho họ trả lại tiền hợp đồng đã ký để có thể cộng tác với đoàn Thanh Minh của bà Bầu Thơ.
Thành Được, Út Bạch Lan sáng chói hơn hết trong hai nhân vật trung tâm của vở tuồng. Nữa Đời Hương Phấn là nữa đời ngang trái cho thân phận đàn bà, cho tình yêu, cho sự đi tìm bạn tri âm và cho cả sự hy sinh cam chịu sự tan nát của nổi lòng khi Hương biết người con gái mà Tùng kết duyên lại chính là Diệu, em ruột của Hương.
Vào đầu năm 1962, Thành Được và Út Bạch Lan đã rời đoàn hát Kim Chưởng để gia nhập đoàn Thanh Minh Thanh Nga với hợp đồng trị giá một triệu đồng năm trăm ngàn đồng và mức lương hát một suất là 1200 đồng. Đoàn hát của họ đã lưu diễn ở miền Trung để tập vở tuồng “Nữa Đời Hương Phấn” của nhà văn Hà Triều Hoa Phượng.
Trong vở tuồng, Thành Được đóng vai Tùng, Út Bạch Lan đóng vai Hương (tên The khi ở quê), và Hữu Phước đóng vai Hai Cang – anh trai của Hương. Họ đã phá hủy hạnh phúc của em mình do quan niệm lỗi thời môn đăng hộ đối. Ngọc Nuôi đóng vai Diệu, em gái của Hương và sau này là vợ chính thức của Tùng.
Trong vở tuồng “Nữa Đời Hương Phấn”, Thành Được và Út Bạch Lan đã sáng chói hơn hết trong hai nhân vật trung tâm. Vở tuồng này kể về cuộc đời ngang trái của một phụ nữ, với tình yêu và hy vọng tìm kiếm bạn tri âm, và sự hy sinh khi phải đối mặt với sự tan nát của tình yêu. Nhân vật Hương do Út Bạch Lan thủ vai đã trình diễn ca bản Phụng Hoàng, lấy nước mắt của khán giả. Cho đến nay, hơn 40 năm sau, lớp ca Phụng Hoàng đó của Út Bạch Lan vẫn khiến người nghe cảm thấy bồi hồi xúc cảm như xưa.
Vở tuồng “Nữa Đời Hương Phấn” đã lập kỷ lục “ăn khách” vào năm 1961 nhờ vào sự diễn xuất xuất sắc của Thành Được, Út Bạch Lan, Hữu Phước, Việt Hùng và Ngọc Nuôi, cùng với những màn ca hay. Ấn tượng đầu tiên về những nam diễn viên có giọng ca vàng như Thành Được và Hữu Phước đã để lại ấn tượng sâu đậm và khó quên. Nhờ thành công của vở tuồng “Nữa Đời Hương Phấn”, Thành Được đã thành công dễ dàng hơn qua các vở tuồng Con Gái Chị Hằng, Tấm Lòng Của Biển, Bọt Biển, Chuyện Tình 17, Tình Xuân Muôn Tuổi, Rồi Ba Mươi Năm Sau, Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng và Tiếng Hạc Trong Trăng.