Menu Đóng

Trang phục xưa của người Miền Tây (ĐB SCL)

Trang phục xưa của người Miền Tây (ĐB SCL)

Ngay từ khi Nguyễn Hoàng trấn thủ tại Thuận Hóa, trang phục của cư dân ở đây không khác biệt so với ngoài Bắc. Tuy nhiên, càng tiến về phương Nam, trang phục của cư dân Đàng Trong ngày càng có những đặc điểm khác biệt so với trang phục của cư dân Đàng Ngoài.

Đặc biệt là, từ khi người Hoa vào Đàng Trong năm 1680 thì trang phục của cư dân bản địa đã có những ảnh hưởng nhất định. Điều này đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định thành thông chí như sau: “Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo vắn tay bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai dùng một miếng vải buộc từ sau lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố, con gái có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế. Năm Mậu ngọ (1738) Thế tôn Hiếu võ Hoàng đế định lại sắc phục, các quan văn võ châm chước theo chế độ của đời Hán Đường, đến Đại Minh thì hình thức mới chế như phẩm phục quan chế ngày nay đã ban hành theo trong Hội điển, gồm đủ cả văn chất. Còn y phục gia thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như thể chế đời Minh” (1).

Trong thời gian chúa Thế Tông Nguyễn Phước Khoát cai trị, một biến động lớn trong việc cải cách trang phục đã diễn ra. Triều đình quy định cư dân Đàng Trong mặc trang phục giống người Tàu, phụ nữ mặc quần thay vì váy như người Đàng Ngoài, nhằm tạo ra sự khác biệt giữa hai vùng.

Hiện nay, cách mặc của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long về cơ bản thống nhất với các vùng miền khác trong nước. Tuy nhiên, do đặc điểm địa hình, thời tiết và khí hậu, cư dân nơi đây đã chọn trang phục phù hợp, mang tính đặc trưng riêng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu sống bằng nông nghiệp, thường phải làm việc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt và đất đai. Vì vậy, trang phục của họ thường có gam màu đen, nâu sậm và ít khi mặc màu trắng, trừ khi tham dự tiệc tục hay lễ hội. Ngày xưa, người dân sử dụng lá bàng, vỏ trâm bầu và trái mặc nưa để nhuộm vải. Chiếc áo bà ba và khăn rằn từng là phục sức phổ biến của cư dân khu vực này.

Đến nay, chưa có tư liệu nào xác định rõ nguồn gốc của chiếc áo bà ba. Người ta chỉ biết rằng vào đầu thế kỷ XX, loại áo này đã trở nên phổ biến ở vùng Nam bộ. Theo nhà văn Sơn Nam, “Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa”.

Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba” (2). Một quan niệm khác lại cho rằng, “Có thể áo bà ba ảnh hưởng, cách tân từ áo lá và áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cứng, xẻ giữa, cài nút thắt… Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng bức, họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng phương Tây”.(3)

Ngày ấy, nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long thường mặc áo bà ba màu đen vì sạch sẽ và dễ giặt. Họ dùng các loại vải như vải một, vải ú, vải sơn đầm… cho áo mau khô. Áo bà ba có nhiều tiện ích, như xẻ hai bên hông cho thoải mái, túi to bên vạt để đựng vật dụng nhỏ như thuốc, diêm, tiền…

Vì tiện dụng và thoải mái, cả nam và nữ ở vùng này mặc áo bà ba khi làm đồng, đi chợ, đi chơi. Tuy nhiên, khi đi chơi, họ chọn màu nhẹ hơn, như trắng, xám tro. Phụ nữ thường chọn màu mạ non, xanh lơ nhạt và vải chất liệu cao cấp hơn.

Trong thời Pháp thuộc, đặc biệt là trước năm 1975, phụ nữ thành thị đã cải tiến áo bà ba để giữ tính dân tộc và tạo nét đẹp hiện đại hơn. Áo dài và bà ba ngày nay không còn rộng và thẳng như xưa, mà được may ôm sát thân hình, tôn dáng vóc.

Ngoài ra, người cải tiến áo dài và bà ba tập trung vào việc sáng tạo các kiểu chắp vai, cổ tay và cửa tay. Cải tiến này giúp áo bà ba trở nên phong phú hơn, với nhiều loại vải ngoại và phổ biến việc sử dụng nịt ngực tân thời. Áo bà ba cải tiến còn chú ý đến các kiểu cổ áo như lá sen, cánh én, đan tôn, lấy cảm hứng từ y phục nước ngoài, với ve lật đặc trưng.

Các kiểu đường may tay áo cũng được cải tiến. Thay vì kiểu may áo cánh liền thân với tay như xưa, người ta đã nghĩ ra cách may tay áo rời ở bờ tay áo. Đặc biệt, trong những năm 1970, ở thành thị miền Nam, kiểu may tay raglan trở nên phổ biến và mang đến vẻ đẹp hiện đại cho chiếc áo dài và bà ba truyền thống. Với kiểu vai raglan này, hai thân áo trước và sau được tách khỏi vai và tay áo, trong khi phần tay áo liền từ cổ đến nách. Bà ba kiểu raglan chỉ cần may vừa vặn với eo lưng, không quá bó sát như kiểu áo trước đó. Tay áo dài hơn và hơi loe, thậm chí có thể bỏ hai túi ở vạt trước để tạo cho thân áo vẻ nhẹ nhàng và mềm mại hơn.

Đây cũng là thời kỳ các loại vải ngoại đẹp tràn lan vào thị trường miền Nam với nhiều màu sắc đa dạng. Các bà, các cô thường chọn hàng tétơrông, soa, mousơlin… để may loại áo bà ba này. Để kết hợp với bà ba, người ta cũng chọn những hàng soa để may quần kiểu nối đáy, may hơi sát mông, ống hơi loe, để tạo dáng đẹp mềm mại, kín đáo, hiền thục của người phụ nữ”.(4)

Chiếc khăn rằn là hình ảnh quen thuộc ở Đồng bằng sông Cửu Long. Không rõ nguồn gốc, nhưng nó đã xuất hiện cùng những con người khai hoang mở cõi phía Nam của Tổ quốc. Khăn rằn và áo bà ba trở thành biểu tượng quen thuộc và gần gũi, đặc trưng cho người phụ nữ Đồng bằng sông Cửu Long cần cù và đáng yêu.

Các nhà nghiên cứu cho rằng khăn rằn bắt nguồn từ người Khmer. Vì tiện ích, nó phổ biến mà không phân biệt dân tộc hay giới tính. Khăn rằn dài 1,2 m, rộng 40-50 cm, với màu sắc giản dị. Thường có hai màu: đen-trắng hoặc nâu-trắng, kẽ thành lằn ngang, đan chéo tạo ô vuông nhỏ trên khăn. Người lao động, điền chủ, và giàu có đều sử dụng nó. Phụ nữ vắt gọn trên đầu, nam cột ngang trán, hai đuôi nhô lên đầu, nút ở phía trước. Khăn rằn cũng quàng cổ, đầu trước ngực, đầu sau lưng, hoặc hai đầu buông trước ngực, kết hợp với quần áo bà ba tạo nét đặc trưng cho cư dân nơi đây.

Bên cạnh chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn, một số thành phần khá giả ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày xưa như công chức, thương gia, điền chủ… thì ăn mặc có phần sang trọng hơn, nhất là ở giai đoạn cuối thế kỷ XX khi mà Việt Nam đã bắt đầu có phong trào Âu hóa thì những tầng lớp này đã chịu ảnh hưởng cách phục sức của phương Tây. Họ ít mặc các trang phục truyền thống hơn, mà thay vào đó là áo vét-tông, giày mỏ vịt, sơ mi cổ cồn, thắt cà vạt… Còn giới điền chủ giàu có thì “khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, đi giày hàm ếch, tay chống ba-toong, để râu trái ấu vuốt sáp”.(5)

Trong các ngày lễ, trang phục cần chỉnh tề, lịch sự. Trang phục lễ phục phổ biến xưa kia là khăn đóng áo dài, với áo dài xuyến hoặc lương đen và quần trắng bằng lụa hay vải. Bộ trang phục này thường mặc khi dự lễ cúng đình, đám cưới, hoặc hiếu, hỉ. Trong tang lễ, màu trắng là chủ đạo, may bằng vải thô, biểu thị sự đau buồn. Áo tang may sống ra ngoài, con nam đội mũ rơm, con nữ đội mấn, họ hàng thân thích quấn khăn tang ngang đầu.

Ngày nay, đời sống nâng cao, nhu cầu mặc đẹp phát triển. Người ta sắm trang phục đẹp, đắt tiền theo khả năng. Giao lưu với văn hóa phương Tây mang lại nhiều trang phục mới. Tuy nhiên, khăn rằn và áo bà ba vẫn giữ vững vai trò biểu tượng đặc trưng của người dân Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là phụ nữ, và là biểu tượng bản sắc văn hóa cần lưu giữ.


Tài liệu tham khảo:

(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo. Nha Văn Hóa – Phủ Quốc vụ khanh – Đặc trách văn hóa xuất bản năm 1972, quyển Hạ, Tr. 6.
(2) Sơn Nam: Văn minh miệt vườn.
(3) Ngô Đức Thịnh: Trang phục người phụ nữ Nam bộ. Tạp chí xưa và nay số 66 B tháng 8 năm 1999.
(4) Ngô Đức Thịnh: Trang phục người phụ nữ Nam bộ. Tcđs
(5) Sơn Nam: Đất Gia Định xưa. NXB TP.Hồ Chí Minh – 1984. Tr. 157.

Posted in Phong tục - Tập quán

Bài tham khảo