“Tôi thương má tôi lắm. Má tôi là một người đàn bà quê mùa, nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn mà! Má tôi nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn!”
Sự ước ao của bà mẹ ông Lam Phương là có một nơi trú ngụ khá tươm tất cho đám con đông đảo của bà. Khi đó, ông Lam Phương cùng gia đình sống trong một con hẻm lầy lội tăm tối ở vùng Đa Kao. Lên 10 tuổi, ông đã lên Sài Gòn một mình và để lại mẹ và các em ở miền quê, trú tại nhà một người dì ở vùng Tân Định. Một thời gian sau, mẹ ông cũng lên Sài Gòn để cùng sống chung trong hoàn cảnh khó khăn và chật vật, được miêu tả trong các bài hát như “Đèn Khuya” và “Kiếp Nghèo” của ông. Trong suốt hơn 45 năm qua, âm nhạc của ông Lam Phương đã in sâu trong tâm hồn của những người yêu nhạc. Phong cách âm nhạc của ông rất chân thành, bình dị và mộc mạc, phản ánh chính bản chất của ông.
Gia đình nghèo, đông anh em
Lam Phương, tên thật là Lâm Đình Phùng, được sinh ra tại Rạch Giá vào ngày 20 tháng Ba, 1937. Là con trai cả trong một gia đình gồm sáu người con, không ai trong số đó theo đuổi nghệ thuật. Khi Lam Phương còn nhỏ, cha ông đã lên Sài Gòn sinh sống và dính líu với những người phụ nữ khác, dẫn đến ông có nhiều em cùng cha khác mẹ. Vì vậy, Lam Phương dành hết tình cảm yêu thương cho người mẹ quê mùa, một người chân chất và giàu tình cảm. Tình yêu này đã trở thành nguồn cảm hứng để ông viết ra những ca khúc nổi tiếng. Lam Phương đã rơi nước mắt khi nhắc đến người mẹ thân yêu đã qua đời vào năm 1979. Từ đó, ông không trở về Việt Nam dù rất nhớ thương.
Để tưởng nhớ người mẹ, Lam Phương đã xúc cảm viết thành ca khúc “Khóc Mẹ” vào năm 1984 tại Paris.
Bi quan
Trong suốt tuổi trẻ, Lam Phương phải đối mặt với cuộc sống khó khăn, đó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của ông, khiến ông trở nên bi quan. Khi được hỏi về triết lý hoặc quan niệm sống của mình và liệu ông đã đưa chúng vào các sáng tác của mình, Lam Phương đã trả lời:
“Có chứ!… Tôi bi quan hơn là nhìn cuộc đời với những cái đẹp này kia. Tôi thấy bi quan, cái đó do ảnh hưởng từ lúc nhỏ của mình. Lúc nhỏ mình sống trong cái hoàn cảnh khổ cực. Khổ từ trong gia đình khổ ra. Thành ra nó ảnh hưởng cho đến khi mình lớn. Cái hình ảnh đen tối nó theo đuổi tôi hoài à. Thành ra tư tưởng cũng như lời nói có vẻ bi quan hơn.”
Lam Phương đã thể hiện tư tưởng bi quan của mình trong một trong những bản nhạc nổi tiếng nhất của ông, “Kiếp Nghèo”, được sáng tác khi ông còn học trung học và gia đình ông đang trong hoàn cảnh khó khăn. Ông đã miêu tả cuộc sống của mình vào thời điểm đó như sau:
“Đi về giữa đêm mưa, mình về nhà trong cái cư xá lầy lội, nghèo khổ. Cái hình ảnh đó nó làm cho mình xúc động mình làm. Bài ‘Kiếp Nghèo’ đã được làm trong một hoàn cảnh thật.”
Lam Phương đã chia sẻ rằng ông không bao giờ quên được ước mơ của người mẹ là được sở hữu một căn nhà nhỏ. Vì vậy, ông quyết tâm sử dụng âm nhạc để làm cho người mẹ hạnh phúc. Lam Phương đã sáng tác bản nhạc đầu tiên của mình, “Chiều Thu Ấy”, khi ông chỉ mới 15 tuổi, nhưng bài hát này chưa được nhiều người biết đến. Sau hai năm, vào năm 1954, khi các tác phẩm âm nhạc của ông như “Kiếp Nghèo” và “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” được phát hành, tên tuổi của Lam Phương đã được biết đến rộng rãi.
Trong những năm tiếp theo, nhạc phẩm của Lam Phương được đón nhận nồng nhiệt và trở thành một biểu tượng của nhạc phổ thông Việt Nam, với những lời mộc mạc và những giai điệu đơn giản, trong sáng và gần gũi với quần chúng. Nhờ những đặc điểm đó, nhạc của ông đã thấm vào tâm hồn người nghe một cách dễ dàng, trở thành một dạng văn chương truyền miệng đậm chất âm nhạc. Sự phổ biến này đã gắn liền tên tuổi của Lam Phương với tâm trạng và cảm xúc của người hâm mộ, như trong bài hát “Thành Phố Buồn” đã trở nên rất phổ biến qua giọng hát của Chế Linh.
Đến năm 1958, Lam Phương gia nhập quân đội và tập trung sáng tác những bản nhạc về đề tài lính chiến. Năm 1959, ông rời quân ngũ và gia nhập ban văn nghệ Bảo An, sau đó tham gia đoàn Hoa Tình Thương. Cùng lúc này, ông cộng tác với các đài phát thanh của Quân Đội và Sài Gòn, và trở thành thành viên của Biệt Đoàn Văn Nghệ cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi ông rời Việt Nam trên chiếc tàu Trường Xuân.
Một tâm hồn lãng mạn
Với hơn 200 nhạc phẩm được sáng tác và phổ biến rộng rãi ở cả Việt Nam và hải ngoại, Lam Phương được coi là một trong những nhạc sĩ sáng chói của Việt Nam, với năng khiếu âm nhạc và tâm hồn đa cảm. Ông cho biết rằng từ khi còn ở quê Rạch Giá, khi còn là một đứa trẻ, ông đã nhận ra mình có một tâm hồn lãng mạn:
“Tôi nghĩ là mình đã có một tâm hồn lãng mạn từ lúc nhỏ rồi… Cái ngày ba tôi bắt lên Sài Gòn học, tôi buồn lắm. Nhưng là con, mình phải chấp nhận điều đó để lo cho tương lai. Trước ngày tôi đi khỏi Rạch Giá, buổi chiều tôi đi cùng hết cả xóm. Tôi dòm từng cái cây, ngọn cỏ, nhìn cái mái nhà tôi mà trong lòng thấy nao nao khi biết mình sẽ phải dứt bỏ.”
Khi sang định cư ở nước ngoài, tình hình thay đổi đã gây ảnh hưởng đến sự phát triển của dòng nhạc của Lam Phương. Ban đầu, ở quê nhà, ông đã sáng tác những bài hát mang đậm nét đẹp văn hoá và cảm xúc của đất nước, gồm những trải nghiệm đắng cay của một cuộc đời nghèo khổ và những tâm sự của những chàng trai trong thời chiến. Điều đó chưa kể đến những bài hát tình cảm mà Lam Phương đã sáng tác, chứa đựng tâm tình của những người yêu nhau trong bối cảnh của một Việt Nam đang chịu đựng chiến tranh.
Sau khi sống ở California một thời gian, Lam Phương đã chuyển đến Paris và sinh sống ở đó suốt nhiều năm. Khung cảnh mới lạ, lãng mạn và cổ kính ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc đến dòng nhạc của ông, giúp ông cảm thấy tự do hơn trong việc sáng tác và được sống thật với chính mình, không còn bị ràng buộc bởi các vấn đề thương mại như khi còn ở Việt Nam.
Kể từ đó, nhiều tác phẩm âm nhạc đặc sắc của Lam Phương được sáng tác như “Mùa Thu Yêu Đương”, “Tình Hồng Paris”,…
Đắng cay, chua xót
Sau khi kết hôn với nữ kịch sĩ Túy Hồng và sau đó ly hôn, Lam Phương đã thể hiện những cảm xúc đắng cay và chua xót trong lời nhạc của ông, phản ánh sự đau đớn của thực tại. Điều này được thể hiện rõ trong ca khúc “Tình Vẫn Chưa Yên”. Sự chán chường và thất vọng trong cuộc sống đã khiến cho người sáng tác trở nên nhẹ nhàng trong lời nói và khiêm tốn trong cách cư xử, tạo nên những ca khúc tình cảm về những mối tình tan vỡ, chia lìa, trong đó “Lầm” là một trong những ví dụ điển hình.
Sau những trải nghiệm đau buồn trong khủng hoảng tình cảm, Lam Phương đã tạo ra nhiều ca khúc tình cảm đặc sắc khác. Ông cho biết nguồn cảm hứng của mình thường đến từ tâm tư của chính mình, và yên tĩnh là điều quan trọng để tập trung tư duy, dù sáng tác có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày. Trong thế giới yên lặng đó, Lam Phương đã sống thật với những cảm xúc của mình khi đối mặt với những tình huống đau khổ và tìm sự giải tỏa qua âm nhạc, truyền tải những lời từ con tim ông qua các ca khúc như “Một Đời Tan Vỡ”.
Sau một thời gian, Lam Phương đã tìm được niềm an ủi từ một mối tình mới kéo dài đến ngày nay. Vợ của ông, Diệu, đã giúp Lam Phương tìm lại ý nghĩa của cuộc sống, từ từ xóa đi những nỗi đau và sẹo lòng trong ông, những gì đã gây tổn thương sâu sắc trong tâm hồn ông và tưởng chừng như khó có thể lành. Cuộc sống của Lam Phương đã trở nên rực rỡ hơn kể từ đó, đặc biệt khi anh viết ra ca khúc “Từ Ngày Có Em Về”, một tác phẩm rất nổi tiếng của ông. Với mối tình mới, Lam Phương đã tìm được niềm hạnh phúc và cảm giác của một “Tình Đẹp Như Mơ”. Và từ đó, sự nghiệp âm nhạc của Lam Phương đã phát triển mạnh mẽ hơn, anh cho ra đời nhiều bài hát tình cảm khác, bao gồm “Bài Tango Cho Em”, “Cỏ Úa”, “Một Mình”, và nhiều hơn nữa.
Trong đó, ca khúc “Một Mình” được sáng tác khi Lam Phương cảm thấy cảm xúc ngổn ngang vào một buổi sáng sớm, khi anh thức dậy và nhìn thấy vợ hiện tại của mình đang ở ngoài vườn một mình, cho bầy chim ăn. Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, ông tự hỏi “Còn bao lâu nữa khi ta già đầu, tình cờ gặp nhau, ngỡ ngàng nhìn nhau, rồi chẳng còn gì cho nhau?”