Nghệ sĩ Út Trà Ôn, tên thật là Nguyễn Thành Út, sinh năm 1919 tại xã Đôn Châu, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Từ thuở nhỏ, Út Trà Ôn rất đam mê đàn hát và thường tham gia những nhóm đờn ca tài tử cùng bạn bè.
Sở hữu giọng hát thiên phú, ông đã tự luyện một lối ca riêng, từ cách nhả chữ đến nhấn nhịp. Chính vì thế, ông thường được mời tham gia làm học trò lễ trong các dịp cúng đình. Khi bước chân vào nghề hát, ông lấy nghệ danh Út Trà Ôn để tưởng nhớ công ơn của cha mẹ và quê hương. Vì là con thứ mười, nghệ sĩ thường gọi ông là anh Mười Út hoặc cậu Mười Út.
Năm 1942, ông Út Trà Ôn rời quê nhà để lên Sài Gòn lập nghiệp. Trên đường, ông đi ngang sông Vàm Cỏ và nhìn thấy ghe hát của Đoàn cải lương Tiến Hóa đang tuyển kép trẻ. Ông liền xin thử giọng, hát một câu vọng cổ và được ông bầu nhận ngay.
Tại Sài Gòn, ông tham gia cuộc thi ca cổ nhạc do hãng rượu Bình Tây tổ chức và giành giải nhất. Sau đó, Út Trà Ôn được mời hát vọng cổ và các bài cải lương trên Đài Pháp Á. Nghệ sĩ Út Trà Ôn nổi tiếng qua các bản vọng cổ như Thức Suốt Đêm Đông, Sầu Bạn Chung Tình và Tôn Tẩn Giả Điên. Các đoàn hát đã nghe danh ca Út Trà Ôn và đua nhau mời ông về hợp tác với gánh hát của họ.
Một trong những bài hát đã góp phần làm nên tên tuổi của ông Út Trà Ôn là “Tôn Tẩn giả điên”. Bài hát này được một nhà sư viết tặng ông khi ông còn là một anh nông dân yêu thích ca nhạc tài tử tại miệt đồng Trà Ôn, Vĩnh Long.
Năm 1942, ông Bầu Trương Văn Thông, chủ gánh hát Tân Thịnh, mời Út Trà Ôn đảm nhận vai trò kép chánh, trình diễn các tuồng như Bàng Quyên – Tôn Tẩn, Tôn Tẩn đại chiến Hải Triều và Tôn Tẩn phá Bình Linh Hội. Nhờ lối ca chân phương, chắc nhịp, giọng trầm ấm và khỏe khoắn, Út Trà Ôn đã chiếm được tình yêu của khán giả khắp nơi.
Năm 1943, ông Bầu Hề Lập mời nghệ sĩ Út Trà Ôn cộng tác trong tuồng Lý Chơn Tâm Cởi Củi. Đây là thời kỳ mà những nghệ sĩ tài năng và có sắc vóc đẹp được nhận tiền thưởng khi mới gia nhập đoàn hát. Sau này, tiền thưởng này được gọi là tiền contrat, kèm theo các điều kiện ràng buộc giữa bầu và nghệ sĩ trong gánh hát.
Từ năm 1943 đến năm 1954, Út Trà Ôn đã tham gia biểu diễn tại nhiều gánh hát như Hề Lập, Thanh Long của bầu Tư Lung, Tiến Hóa của bầu Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh và Mộng Vân do bầu kiêm soạn giả Mộng Vân quản lý. Mộng Vân đã viết tuồng “Thái Tử lưng gù” dành riêng cho Út Trà Ôn (sau đổi tựa là “Một người anh”). Năm 1954, ông gia nhập gánh hát Thanh Minh của bầu Nghĩa, chồng bà bầu Thơ – mẹ nữ nghệ sĩ Thanh Nga.
Trước năm 1954, do chiến tranh, các đoàn hát không thể biểu diễn ở nhiều địa điểm an toàn, dẫn đến thu nhập giảm sút. Nghệ sĩ Út Trà Ôn đã ký hợp đồng với bầu Mộng Vân với mức lương là 50.000 đồng trong hai năm. Đây là mức hợp đồng cao nhất mà một nghệ sĩ có thể nhận được vào thời điểm đó.
Sau năm 1954, tại Sài Gòn và các tỉnh, nhiều rạp hát lớn, khang trang và rộng rãi được xây dựng, tạo điều kiện cho các đoàn hát cải lương thu hút nhiều khán giả. Sự xuất hiện của nhiều đoàn hát mới tạo nên sự cạnh tranh trong việc chiêu mộ nghệ sĩ. Nghệ sĩ Út Trà Ôn đã ký hợp đồng biểu diễn cho gánh hát Thanh Minh của bầu Nghĩa với mức hợp đồng là 350.000 đồng trong hai năm, lương 700 đồng mỗi suất hát.
Đầu năm 1956, ông rời gánh hát Thanh Minh để cùng các nghệ sĩ Kim Chưởng, Thúy Nga và Thanh Tao thành lập gánh hát Kim Thanh – Út Trà Ôn. Nghệ sĩ Út Trà Ôn đã phải bồi thường 700.000 đồng tiền hợp đồng cho bầu Nghĩa.
Năm 1958, khi đoàn hát Kim Thanh tan rã, nghệ sĩ Út Trà Ôn quay trở lại hợp tác với đoàn hát Thanh Minh với hợp đồng trị giá 1,5 triệu đồng trong hai năm và lương mỗi suất hát là 1.500 đồng. Vào ngày Chủ Nhật hay ngày lễ, nếu đoàn hát biểu diễn hai suất, Út Trà Ôn nhận được 3.000 đồng (tương đương 1 lượng vàng thời đó), trong khi giá 1 lượng vàng khoảng 2.800 đến 3.000 đồng.
Năm 1955, báo chí kịch trường tổ chức trưng cầu ý kiến khán giả và độc giả, nghệ sĩ Út Trà Ôn được trao danh hiệu “Đệ Nhất Nam Danh Ca”. Ký giả Nguyễn Ang Ca đã gọi ông là “Vua Vọng Cổ Út Trà Ôn”. Từ đó, mỹ hiệu “Vua Vọng Cổ” được giới nghệ sĩ, báo chí và khán giả dùng để gọi Út Trà Ôn, thay cho danh hiệu “Đệ Nhất Nam Danh Ca Út Trà Ôn”.
Nghệ sĩ Út Trà Ôn được biết đến là người đầu tiên khiến cho tiền ký hợp đồng giữa nghệ sĩ và bầu gánh hát tăng cao đáng kể. Trong thập niên 50, ông ký hợp đồng với bầu gánh hát Thanh Minh với giá trị 1,5 triệu đồng, và mức lương mỗi suất hát là 1.500 đồng. So với mức lương của các giám đốc, chủ sự, ông Cò mi, và thư ký chính phủ, đây là một mức thù lao rất cao.
Dù là một danh ca nổi tiếng và đào hoa, Út Trà Ôn lại là người chồng chung thủy, chỉ có một vợ một chồng và một dòng con. Ông có 6 người con, gồm 3 trai và 3 gái. Ca sĩ Bích Phượng là con út và là người tiếp nối nghiệp cha. Út Trà Ôn còn nổi tiếng với niềm đam mê chơi bi-da, và có biệt danh “Cậu Mười bi-da”.
Sau năm 1975, Út Trà Ôn tiếp tục biểu diễn và đóng góp cho sân khấu cải lương ở các đoàn Sài Gòn 1, Trần Hữu Trang và những nhóm nghệ sỹ khác. Tuy nhiên, do tình hình chung của xã hội lúc đó, vai diễn và các bài hát nổi tiếng của ông phần lớn là những tác phẩm trước đây, như Gánh Nước Đêm Trăng, Ông Lão Chèo Đò, Tình Anh Bán Chiếu, Gánh Chè Khuya, Tuyệt Tình Ca, Tiếng hát Muồng Tênh,…
Tháng 3 năm 1997, Út Trà Ôn được vinh danh và trao tặng danh hiệu Nghệ sỹ Nhân dân, cùng với các nghệ sỹ khác đã có những đóng góp lớn cho nền nghệ thuật Việt Nam. Ông trút hơi thở cuối cùng vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TPHCM), hưởng thọ 83 tuổi, và được an táng tại Chùa Nghệ Sĩ, Quận Gò Vấp.
Ca sĩ Bích Phượng kể chuyện về cha:
“Năm lên 10 tuổi, mỗi chiều chủ nhật ba dắt tôi đi xem hát. Biết tôi là con gái út của Út Trà Ôn, ai cũng hỏi lớn lên tôi có theo nghề ba. Tôi trả lời không, khiến ba rất thất vọng. Nay thì khác rồi, ba rất quý mến tôi vì đã nối nghiệp hát”. Ca sĩ Bích Phượng, người vừa được Đài Tiếng nói Nhân dân TP HCM trao giải thưởng vì có giọng hát nhạc truyền thống hay nhất kể về cha mình.
Năm 1987, nghệ sĩ Út Trà Ôn ký hợp đồng với đoàn Tây Ninh để cho con gái theo học nghề. Thực tế, kể từ khi còn làm công nhân tại Xí nghiệp Xây lắp nội thương 2 và đoạt huy chương vàng với bài Dáng đứng Bến Tre (1984), Phượng đã tự tin rằng mình có khả năng tiếp nối nghiệp cha.
Tuy nhiên, cha chị lại muốn con gái thử sức ở lĩnh vực sân khấu. Lúc đó, bị áp lực từ nhiều phía, chị không thể phát huy được khả năng của mình. Để không làm khó ba, Phượng quay trở về Sài Gòn.
Sau này, ông giải thích với vợ: “Tuổi 60 tôi đâu còn ham hố danh lợi, chỉ vì muốn được dìu dắt con theo nghề nên mới ký hợp đồng lưu diễn. Ai dè cả đời lo lăng xê biết bao đào trẻ, đến lượt con mình thì cơ sự như vậy”. Đến một hôm thấy con gái xuất hiện trên truyền hình với nhóm nhạc dân tộc, (tiền thân của nhóm Phù Sa hiện nay), ba chị reo lên: “Con Phượng hát dân ca hay thiệt bà ơi! Thôi thì nó đi theo tân nhạc cũng quý rồi! Miễn dính dấp đến nghệ thuật đã là hậu duệ của Út Trà Ôn”.
Bí quyết không ghen của má
Hồi trai trẻ, nghệ sĩ Út Trà Ôn nổi tiếng với tài đào hoa. Mỗi chiều, ông đến rạp hát sớm để ký tên vào một chồng ảnh tại quầy vé để tặng khán giả. Lúc nhỏ, Phượng đã quen với hình ảnh đó, nhưng rất không thích khi thấy ba bắt tay với những nữ khán giả. Chị kể lại chuyện này với mẹ, nhưng bà chỉ cười: “Ba xã giao với người ta thôi mà!” Rồi cũng có những cuộc gọi điện thoại và những bức thư tình nồng nàn gửi đến ba, nhưng lạ lùng là mẹ chị nghe, đọc rồi không phản ứng gì. Chị nhận ra mẹ là người phụ nữ hạnh phúc, luôn tự tin và vững chãi khi đối mặt với những “đối thủ tình ái.”
Khi lớn lên, chị hiểu mẹ nuốt nỗi hờn ghen vào lòng để chứng tỏ mình là người chiến thắng. Trong một buổi giao lưu do Cung văn hóa Lao động TP HCM tổ chức, mẹ chị đã tự tin tuyên bố: “Ớt nào mà ớt chẳng cay nhưng đã chấp nhận làm vợ nghệ sĩ thì không ghen. Bí quyết của tôi là giữ vững uy tín cho chồng, vì thần tượng của mọi người cũng chính là thần tượng của tôi!” Bây giờ, trí nhớ của nghệ sĩ Út Trà Ôn bắt đầu suy giảm, nhưng mỗi khi nhắc đến chuyện xưa, ông lại nhớ rõ và nói với các con: “Má bây nổi tiếng không biết ghen!”
Chuyện tình của ba má
Phượng kể rằng, câu chuyện tình yêu của ba mẹ chị rất đặc biệt. Lúc đó, mặc dù đã nổi tiếng, nghệ sĩ Út Trà Ôn vẫn thích ăn cơm bình dân. Ông thường ghé đến một tiệm cơm trong con hẻm nhỏ. Cả khu xóm tự hỏi tại sao ông nghệ sĩ lại thích ăn cơm ở tiệm này?
Khi tiệm chuyển sang nấu cơm tháng cho sinh viên, học sinh và công nhân Sài Gòn, ông vẫn đăng ký mỗi trưa một suất. Sau này, mọi người hiểu ra rằng cháu gái của bà chủ quán chính là nguyên nhân khiến danh ca số một thích ăn cơm ở đây. Ba chị yêu mẹ vì nét đẹp chân quê. Mẹ Phượng kể: “Hồi đó nghe đĩa nhựa bài Tôn Tẫn giả điên, tao nghĩ trong bụng cái ông Út Trà Ôn này chắc già khú đế. Ai dè trẻ đẹp và có duyên ăn nói…”.
Theo Phượng, ba chị là người sống lãng mạn, thích hoài niệm về những chuyện xưa. Khi nghề hát đang khó khăn, ông đã dốc bao nhiêu tiền vào gánh hát, khiến sự nghiệp suýt tiêu tan. Mẹ chị phải lao động mưu sinh để nuôi chồng con. Nhiều đêm, nghệ sĩ Trà Ôn thức trắng đêm, khiến người vợ khóc suốt đêm. Nhưng ba chị vẫn tự tin: “Công chúng còn thương tôi, thì sợ chi nghèo đói. Trách nhiệm của bà là nuôi dạy đàn con khôn ngoan, chăm học, đừng để người ta khinh con nghệ sĩ dốt lễ nghĩa.”