Phương ngữ Nam Bộ ra đời và phát triển song hành cùng quá trình lịch sử 300 năm của vùng này, không ngừng được bổ sung thông qua sự giao lưu sôi động của nhiều dòng văn hóa khác biệt. Phương ngữ này bắt nguồn từ thế kỷ XVII, khi những người Việt đầu tiên đến định cư và khai khẩn Miền Đông Nam Bộ, sau đó mạnh mẽ mở rộng sang Miền Tây.
Đến nay, phương ngữ Nam Bộ đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, liên kết với các sự kiện chính trị và văn hóa, như sự ra đời của chữ quốc ngữ vào nửa sau thế kỷ XIX. Đây là giọng nói đầy sức sống của nhân dân lao động, được sử dụng và lan tỏa thông qua lối nói khẩu ngữ trong một vùng văn hóa địa phương nhất định.
Đối với phương ngữ Nam Bộ, rõ ràng có sự giao lưu đậm nét với các phương ngữ khác trong khu vực, như phương ngữ của đồng bào Khmer, Chăm, Hoa và một số ngôn ngữ khác. Điều này tạo nên bản sắc và đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ, bắt nguồn từ giọng nói của người dân địa phương.
Trong ngôn ngữ nói, người Nam Bộ thường có thói quen sử dụng 5 dấu thanh (không dùng thanh ngã), hay phát âm sai phụ âm đầu (ví dụ, h-g), biến đổi trong cách phát âm (i-iê, ng-n), gộp âm trong xưng hô (bả, chả, ảnh, chỉ), chỉ địa danh (ngoải, trỏng), sử dụng từ cổ (bể, bợ, bông, heo), dùng yếu tố phụ để tạo từ có sắc thái (dơ hầy, nhọn lểu, rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hoét), và thích vay mượn từ ngôn ngữ khác (chạp phô, tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui, cần xé, cù lao, giận lẫy, cúng dàng). Phương ngữ Nam Bộ chính là kết quả của ngôn ngữ nói hàng ngày của bà con ở vùng này.
Ví dụ: Tèm hem, tầy huầy, trớt huớt, thoi loi, tùm lum, nháu nhó, hết ý, chịu chơi, xả láng, thả giàn, hết ý, hết xảy, quá xá mấu, đẹt câm đẹt ngắt, cứng ngắt cứng còng, trẻ khô, già khú đế, ngồi chò hỏ, ngồi chành bành, ngồi chèm bẹp, ớn xương sống, sợ thấy mụ nội, trời thần đất lở, thấy mồ tổ, chèng đéc ơi?
Những từ ngữ này mang đậm chất phương ngữ Nam Bộ và phản ánh sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ này.
Nếp sống, cách suy nghĩ và nói năng của người Nam Bộ, cùng với tính bộc trực, thẳng thắn và ít thích văn chương rườm rà, đã tạo nên ngôn ngữ Nam Bộ với lối nói ngắn gọn, giàu hình tượng, thích ẩn dụ hài hước: bi dai, bi lớn, bi nhiêu, bi tuổi, mặt chằm chặp, đồ không sợ gì, đồ mặt dày, đẹp ớn lạnh, xấu sợ hãi, ngon tuyệt vời, say như điếu đổ, lười biếng, cà rịch cà tang, chậm rãi, cà xích cà xẹo, béo dạng béo hình, bình thản như nước. Những từ ngữ này phản ánh sự phong phú và đa dạng của ngôn ngữ Nam Bộ.
Cũng chính vì tính chất đó, phương ngữ Nam Bộ mang đến cho ca dao vùng này một vẻ đẹp bình dân và mộc mạc. Chúng ta cần đọc nhiều lần để thấu hiểu và cảm nhận được sự đặc sắc của nó.
Trắng như bông lòng anh hổng chuộng
Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương
Muốn người ta người ta không muốn
Xách cái dù đi xuống đi lên
Thương sao thương quá bất nhơn
Bữa nay gặp mặt thương hơn bữa nào
Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái dám chèo ngang giữa dòng
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm
Thuyền chài thuyền lưới thuyền câu
Biết thuyền nhơn ngãi nơi đâu mà tìm
Nước chảy liu riu lục bình trôi quắn quíu
Anh mãng thương nàng lịu địu xuống lên
Mái dầm anh đong đưa
Cùng với em dạo mát
Đặt em ngồi đằng trước
Hay em ngồi đằng sau
Ôi em ngồi chỗ nào
Anh cũng không ưng bụng
Mái dầm anh lúng túng
Đặt em lên đùi anh (Dân ca Khơme)
Xóm làng mình sông sâu nước chảy
Để em ngồi trên thuyền sao lòng anh áy náy
Sợ sóng đánh làm ướt đôi chân em
Để em ngồi đằng trước thì sợ trúng mái dầm
Ngồi ở giữa thuyền thì xa lơ xa lắc
Em ngồi ở đâu thật khó lòng tính được
Chỉ có cách là bồng em đặt lên đùi anh (Dân ca Khơme)
Từ những câu ca dao dân gian, khi kết hợp với giai điệu và tiết tấu, phương ngữ Nam Bộ tỏa sáng những vẻ đẹp bình dân cuốn hút và gần gũi.
Đố ai kiếm được cái vẩy con cá trê vàng
Cái gan con tép bạc mấy vàng tôi cũng mua Ô là ô áo vá quàng (Lý áo vá quàng)
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi (Lý chim quyên)
Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng em thương chàng bấy nhiêu (Hát đưa em)
Ba xa kéo chỉ trên chòi
Xa kêu vòi vọi anh đòi chuyện chi (Lý ba xa kéo chỉ)
Chiều chiều gọt mướp nấu canh
Thấy anh qua lợi bỏ hành cho thơm (Lý trái mướp)
Lỡ tay rớt bể bình vôi
Chủ gia bắt được đọa đày xứ xa (Lý bình vôi)
Chú chim sẻ ơi
Ơ ơ ớ hùi Ăn lúa nhà người
Vừa thơm vừa ngọt
Đừng ăn lúa mót
Trên đồng nhà tao
Lúa của nhà nghèo
Vừa cay vừa đắng
(Choôlchap – Dân ca Khmer)
Trên cành đơm bông vui quá
Sáo con nhảy múa tối ngày
Cánh thì xòe ra bay bay
Chân thì lia thia nhảy nhảy
Ơi đàn sáo con bé tí
Chẳng biết nhờ ai đệm đàn
Đành lấy chiếc mỏ ra ràng
Mổ cành đơm boong khe khẽ
(Xarikakkeo – Dân ca Khmer)
Đừng nhìn tao bớ chim ơi
Hai đứa tao yêu nhau rồi
Mà biết nói gì Chỉ biết nhìn chim bay đi
(Chim Môhôri – Dân ca Khmer)
Phiền muộn chi em làm héo cánh hoa
Luyến tiếc chi em làm héo nụ cười
Hay là em đã say đắm nơi nào
Ta càng tha thiết mãi không thôi
(Xaccrova chhlơơi chhloong – Dân ca Khơme)
Chim cu kêu cúc cu
Nó đậu trên ngọn tre
Anh gặp rồi anh thương
Em đây còn nhỏ
Em ơi anh chờ em
Em đi lấy chồng
Sao đành bỏ anh
(Dân ca Chăm)
Kiếp này lắm ngang trái
Để kiếp sau ta gặp nhau
Anh ơi số trời định ước
Anh đừng giận vô cớ
(Dân ca Chăm)
Con chim trao trảo
Nó rất dạn
Đã bay khắp nơi
Được sống sung sướng
Sanh con đẻ cháu
Được ở khắp bụi bờ
(Dân ca Chăm)
Con ơi
Ở với mẹ có áo mặc
Ra lấy vợ
Áo không kịp cài nút
Con ơi
Đừng buôn lá bài
Của cải của người ta
Đừng lừa gạt
(Dân ca Chăm)
Người Viễn Xứ