Menu Đóng

Đôi nét lịch sử hình thành vùng đất An Giang

Đôi nét lịch sử hình thành vùng đất An Giang

Về nguồn gốc của người Việt tại vùng đất An Giang, không có sử sách nào ghi chép rõ ràng về thời điểm bắt đầu. Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian và một số dấu vết còn lại, đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung đến đây từ rất lâu.

Dù gặp rất nhiều khó khăn và nguy hiểm trong cuộc sống ban đầu, nhưng người Việt ở đây vẫn kiên trì tìm kiếm đất sống. Họ sống rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.

Khi Nguyễn Hữu Cảnh đến phía Nam kinh lược, ông đã thấy có người Việt sống ở vùng Bình Mỹ (Châu Phú), vùng Châu Đốc và cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng). Theo truyền thuyết, khi thuyền quân đi xuôi dòng sông Cửu Long vào năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh đã ghé thăm những nơi có người Việt để khích lệ họ giữ tình thân thiện với những người khác chủng tộc. Ông cũng cho phép một số binh phu được ở lại ven sông vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu và Chợ Mới cày cấy làm ăn.

Các cư dân sống trên Cù lao Ông Chưởng được biết đến với tên gọi “dân hai huyện” (Phước Long và Tân Bình). Họ được xem là tấm gương điển hình về sự giữ gìn văn hóa truyền thống, tuân thủ đúng những tập quán ẩm thực và suy nghĩ của người Việt. Khi đi từ Chợ Mới đến Cái Hố theo con rạch Ông Chưởng, ta có thể gặp một số gia đình địa phương đã sinh sống tại đây từ thời kỳ của vua Gia Long, Minh Mạng hoặc hơn nữa (tức 6 đời trước đó).

Ở Cù lao Giêng, một địa danh cổ được gọi là bến đò Phủ Thờ. Nơi này thuộc sở hữu của gia đình Nguyễn từ Bình Định, và đến ngày nay, con cháu của họ vẫn sinh sống và cư ngụ tại đây từ đời thứ 7, thứ 8 với sự đông đúc. Khi người Việt Nam di cư vào phía Nam để tìm kiếm cơ hội mới cho bản thân và gia đình, họ thường đi cùng với cha mẹ, vợ chồng và con cái, và khi đến nơi thì không còn cách nào để trở lại quê hương vì quá xa.

Nhờ vào các chính sách mở rộng kinh tế của triều đình Nguyễn, quá trình khai thác và phát triển các khu vực ven biển phía Nam của đất nước đã diễn ra nhanh chóng hơn bao giờ hết.

Khi tỉnh An Giang mới được thành lập, dân cư tập trung khá đông dọc theo hữu ngạn sông Tiền ở cù lao Ông Chưởng và một số thôn, xã được thành lập. Mặc dù cù lao Giêng không rộng lớn nhưng sanh kế dễ dàng, nên qui tụ được 4 thôn.

Phía hữu ngạn sông Hậu thì dân cư thưa thớt. Từ biên giới Việt-Miên xuống Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện với Bình Thạnh Đông hiện nay), Bình Đức và Mỹ Phước.

Vùng An Giang gồm hai khu vực mới và cũ riêng biệt:

  • Phía Tân Châu, Ông Chưởng và Chợ Mới dễ canh tác, dân đông, làng cũ vì đã được lập từ lâu.
  • Phía hữu ngạn sông Hậu là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân thưa thớt, làng mới được lập.

Việc di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu, bắt đầu từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ, nhiều nhà cửa của nông dân đã được dựng lên và các đình chùa cũng bắt đầu được xây cất. Năm 1818, theo lệnh triều đình, Nguyễn Văn Thoại đã đốc suất đào kinh Đông Xuyên ra đến Rạch Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang ở hai bên bờ kênh.

Khi đào kênh Vĩnh Tế hoàn thành, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam, tạo điều kiện cho dân từ Châu Đốc vào núi Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến đến khai phá vùng Tịnh Biên.

Đầu thế kỷ XIX đã có nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nề nhất. Năm 1833, giặc Xiêm tàn phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn qua Tân Châu. Tuy nhiên, chỉ sau 5 năm, dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác từ núi Sam dọc theo hai bờ kênh Vĩnh Tế về phía Hà Tiên.

Vùng Châu Đốc là một vùng biên cương hiểm trở, nơi người dân phải vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại xâm, mỗi người dân khẩn hoang đều là một lính thú biên cương.

Trong những nhóm di dân đến khai phá vùng Châu Đốc (khoảng năm 1785 – 1837), gia tộc Lê Công gốc Thanh Hóa là một trong những nhóm có công. Hiện con cháu đời thứ 7 của gia tộc này vẫn cư ngụ tại đây. Ngoài ra, dòng Nguyễn Khắc, thuộc con cháu của Nguyễn Văn Thoại cũng có công khai phá vùng Châu Đốc.

Dưới triều đại của vua Minh Mạng, phần lớn tội phạm lưu đày đã được gom về vùng Vĩnh Tế để lập các xóm dọc bờ kênh, từ đó dần dần hình thành vùng dân cư.

Khi làm kinh lược sứ ở miền Nam, Nguyễn Tri Phương đã có sáng kiến lập đồn điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung ở vùng Châu Đốc và Hà Tiên. Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo rằng đã thành lập được 21 cơ đồn điền. Hai năm sau đó, tỉnh An Giang và Hà Tiên đã chiêu mộ được 1.646 dân định cư và lập thành 159 thôn ấp.

Trong thời gian này, người Chăm tại khu vực ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong) đã tụ họp thành từng đội dưới sự lãnh đạo của một viên Hiệp. Họ di cư từ bên Chân Lạp và tìm nơi ẩn náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh các cuộc chiến nội bộ và định cư ở Tân Châu, An Phú.

Đồng thời, những người theo đạo Thiên Chúa bị kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn từ miền ngoại đã tới địa bàn An Giang sớm hơn và định cư tại các địa điểm như cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng Gù (1845), tăng thêm dân số cho vùng này.

Tư liệu trước đây nói về nguồn gốc các dân tộc thiểu số ở An Giang như sau:

  • Người Khmer: Đây là dân bản địa có lịch sử lâu đời, hầu hết sinh sống tại Việt Nam, gọi là người Việt gốc Khmer. Họ tập trung nhiều nhất ở các quận Tri Tôn và Tịnh Biên. Phong tục và ngôn ngữ của họ không khác người Khmer ở chánh quốc. Họ sùng bái đạo Phật, tôn kính các sư sãi và sẵn sàng dâng cúng cho chùa những huê lợi do họ làm ra để cầu phúc.
  • Người Chăm và người Mã Lai đến ở vùng Châu Đốc từ năm 1840. Trước đó, họ sống ở Cao Miên.
  • Người Hoa là một trong các dân tộc đến ở An Giang. Theo dụ số 48 ngày 21/8/1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm sửa đổi bộ luật quốc tịch Việt Nam, những người Hoa sinh sống tại Việt Nam được xem là dân Việt Nam.

Ngoài ra, còn có những người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến định cư ở An Giang. Họ bao gồm dân từ các tỉnh lân cận như Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long… và tập trung khai phá vùng Thất Sơn, rừng núi hoang vu.

Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được sáng lập bởi cụ Đoàn Minh Huyên và đã chia thành nhiều đoàn tín đồ để khai khẩn ở nhiều nơi khác nhau.

  • Đoàn thứ nhất được chỉ huy bởi cụ Bùi Văn Thân (tức tăng chủ Bùi Thiền sư) và cụ Bùi Văn Tây (tức Đình Tây), đã đến Thất Sơn (bên chân núi Két) để lập các trại ruộng Hưng Sơn và Xuân Sơn, và sau đó hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh Biên).
  • Đoàn thứ hai được chỉ huy bởi cụ Quản cơ Trần Văn Thành, đã đến Láng Linh (vùng đầm lầy) để khai hoang và lập đồn, tụ nghĩa binh chống lại Pháp.
  • Đoàn thứ ba do cụ Nguyễn Văn Xuyến (tức đạo Xuyến) dẫn đầu, đã đưa tín đồ về Cái Dầu – Bình Long (Châu Phú).

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được khởi xướng bởi cụ Ngô Lợi và đã thu hút hàng trăm tín đồ từ khắp nơi đến vùng núi Tượng và núi Dài để khai hoang, lập làng và giáo huấn về tứ Ân Hiếu Nghĩa. Theo Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1847 tỉnh An Giang có 22.998 người theo báo cáo của Bộ Hộ, trong khi cả nước Việt Nam khi đó chỉ có 1.024.388 người.

Vào năm 1930, chính phủ Pháp dừng các chính sách di dân khẩn hoang vào miền Nam. Theo số liệu niên giám thống kê của Pháp năm 1921, dân số của hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cộng lại đứng đầu về đông dân nhất trong đồng bằng sông Cửu Long.

Posted in Lịch sử

Bài tham khảo

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *