Cải lương là một thể loại kịch hát bắt nguồn từ miền Nam Việt Nam, được tạo ra dựa trên những bài hát dân ca của vùng đồng bằng sông Cửu Long và âm nhạc của các nghi lễ tế. Từ “cải lương” được giải thích theo nghĩa Hán Việt là “sửa đổi để trở nên tốt hơn”, được thể hiện thông qua kịch bản, biểu diễn nghệ thuật, dàn nhạc và bài bản.
Theo Vương Hồng Sển, mặc dù có người cho rằng cải lương đã ra đời từ năm 1916 hoặc 1918, nhưng ông cho rằng từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được biểu diễn tại Nhà Hát Tây Sài Gòn, cách hát mới này đã lan rộng và mở ra một nghệ thuật mới, kết hợp đàn ca và ca ra bộ để cải cách và cập nhật, không ai biết chính xác thời điểm cải lương ra đời.
Theo Vương Hồng Sển, ở thời điểm này, khi người ta nghe hát bội quá nhiều, khiến tai mất cảm giác và trở nên nhàm chán. Rồi từ đó các nhóm đờn ca xuất hiện để mang lại sự mới lạ cho âm nhạc.
Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các nhóm đờn ca được hình thành nhằm phục vụ trong các buổi lễ tư gia như đám tang, lễ giỗ, tân hôn, tuy nhiên chưa biểu diễn trên sân khấu hay trước công chúng.
Nếu trước đây, cầm (trong “cầm, kỳ, thi, họa”) chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu, thì trong thời điểm này, chúng đã trở nên phổ biến hơn ngoài giới hạn đó. Vì vậy, âm nhạc tài tử ở các tỉnh phía Nam đang dần thoát khỏi những truyền thống âm nhạc có nguồn gốc từ khu vực Trung và Bắc, cả về nội dung lẫn hình thức.
Theo Vương Hồng Sển và các tài liệu tham khảo cùng những câu chuyện được lão thành kể lại. Rất có thể cải lương đã bắt đầu từ những tình cờ và sự ngẫu nhiên, do lòng yêu nước mà phát triển.
Tác giả giải thích rằng người miền Nam có một phẩm chất đáng khen là họ biết cách tránh sử dụng bạo lực để đạt được mục đích. Thay vì đánh đập, họ cố gắng kiềm chế lòng yêu nước, giấu bên trong một vẻ bề ngoài thoải mái, vô tư. Những người tài tử thường tụ tập lại để cùng ca hát, rèn luyện nghệ thuật. Trong các dịp “quan – hôn – tang – tế”, cũng như vào lúc khuya, họ hòa đàn, luyện tập ca hát để đánh tan cơn buồn ngủ. Với thời gian, việc này đã trở thành một thói quen, mỗi khi có đám tang, đám cưới, lễ tế, chủ nhà đều mời họ đến tham gia.
Vào thời điểm đó, Đàn Ca Tài Tử được phân thành hai nhóm chính:
- Nhóm tài tử Miền Tây Nam Bộ, bao gồm các danh họa như Bầu An, Lê Tài Khị (còn gọi là Nhạc Khị), Nguyễn Quan Đại (Ba Đợi), Trần Quang Diệm, Tống Hữu Định, Kinh Lịch Qườn, Phạm Đăng Đàn…
- Nhóm tài tử Sài Gòn, bao gồm các nghệ sĩ tiêu biểu như Nguyễn Liên Phong, Phan Hiển Đạo, Nguyễn Tùng Bá…
Lối Ca Ra Bộ
Đến năm 1910, Trần Văn Khải đã ghi nhận rằng tại Mỹ Tho, có một ban tài tử do Nguyễn Tống Triều – người Cái Thia – sáng lập, bao gồm Tư Triều (đờn kìm), Mười Lý (thổi tiêu), Chín Quán (đờn độc huyền), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), và cô Ba Đắc (ca sĩ). Các tài tử này được chọn để đại diện cho nhạc cổ truyền Việt Nam biểu diễn tại triển lãm ở Pháp. Sau khi trở về, họ cho biết rằng ban tổ chức đã cho phép họ biểu diễn đờn ca trên sân khấu và thu hút được sự quan tâm của công chúng.
Khi nghe về cách biểu diễn “đờn ca trên sân khấu”, chủ rạp chiếu bóng Casino – Thầy Hộ – ở sau chợ Mỹ Tho đã mời ban tài tử Tư Triều biểu diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trên sân khấu của mình trước khi chiếu bóng, và họ đã được đón nhận nồng nhiệt bởi công chúng.
Trong giai đoạn này, Mỹ Tho được xem là trạm xe lửa chính để đi đến Sài Gòn. Những khách hàng đến từ các tỉnh miền Tây cũng buộc phải ghé qua đây để đi Sài Gòn. Trong số đó, ông Phó Mười Hai từ Vĩnh Long là một người yêu nhạc cầm. Một lần nghe cô Ba Đắc trình bài Tứ Đại như “Bùi Kiệm – Nguyệt Nga”, với giọng hát tương đối duyên dáng, tuy nhiên không thể tương tác với khán giả. Khi trở về Vĩnh Long, ông đã yêu cầu người hát trên bộ ván ngựa “ca ra bộ”. Từ đó, “ca ra bộ” đã phát triển, vào khoảng thời gian từ 1915-1916.
Cũng theo tác giả Vương Hồng Sển: các thể loại ca ra bộ và cải lương sau này đã phát triển dựa trên nền tảng của các buổi hát nhân những kỳ bãi tường, tức các buổi biểu diễn của các trường trung học Taberd, Mỹ Tho và trường tỉnh Sóc Trăng. Chúng ta cần biết ơn những người tiền bối, phần lớn là các giáo sư trường Pháp, đã có khát vọng và kiến thức để chỉ dẫn và giáo dục cho chúng ta biết đến một nghệ thuật hát ca khác, khác với điệu hát bội thời đó…
Hình thành Cải lương
Vào năm 1920, cụm từ “cải lương” được đưa lên bản hiệu của nhóm hát Tân Thịnh lần đầu tiên, với câu liên đối:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh.
Vương Hồng Sển đã cho biết rằng, mặc dù nguồn gốc của cải lương không ai biết rõ chính xác nhưng theo ông:
- Trước năm 1915, tại miền Nam, các diễn viên tài tử chỉ biểu diễn kiểu ca “độc thoại”.
- Năm 1916, đã xuất hiện kiểu ca “đối thoại” (có hai diễn viên đóng vai và trao đổi giữa họ).
- Vào đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, diễn tuồng “Pháp – Việt Nhứt Gia” (tức vở Gia Long tẩu quốc) đã đánh dấu thời kỳ phát triển của cải lương.
Sau các buổi diễn tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, André Thận và Năm Tú đã đưa cải lương lên sân khấu chính thức. Năm 1922, các vở tuồng Trang Tử thử vợ và Kim Vân Kiều đã được biểu diễn tại Rạp Mỹ Tho, sau đó lên sân khấu của Rạp Chợ Lớn và Rạp Modern Sài Gòn, khi đó hình thức hát cải lương mới chính thức hình thành.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, sau đó trong thập niên 1920-1930, cải lương phát triển mạnh mẽ, nhiều gánh hát mới ra đời, trong đó Phước Cương và Trần Đắc là hai gánh hát nổi tiếng nhất. Các vở kịch của họ bao gồm 3 loại: tuồng cổ truyền của Trung Quốc, kịch xã hội và kịch phóng tác (như “Tơ vương đến thác”, “Giá trị và danh dự”).
Trong giai đoạn từ 1930 đến 1934, nghệ thuật cải lương lan rộng ra phía Bắc và nhiều nghệ sĩ tài năng đã xuất hiện, bao gồm Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu… Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, nhiều gánh hát phải tan rã. Với sự ưa chuộng của khán giả trong tình trạng tâm lý tôn giáo, các gánh hát bắt đầu biểu diễn các vở kịch liên quan đến Phật giáo và tiên giới, và gánh hát Tân Thịnh là người đi đầu.
Từ năm 1934, phong trào “kiếm hiệp” được xuất hiện và gánh hát Nhạn Trắng cùng tác giả Mộng Vân từ Bạc Liêu là những người tiên phong. Nhiều vở kịch nổi tiếng đã được sáng tác, bao gồm “Chiếc lá vàng”, “Bích Liên vương nữ”, “Bảo Nguyệt Nương”. Kể từ sau Cách mạng tháng Tám, có nhiều vở kịch mới được biểu diễn, với nội dung đa dạng và phong phú.
Đặc điểm
Từ khởi đầu, các vở cải lương được viết về các tích cũ như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo mộ, Thoại Khanh Châu Tuấn v.v. vẫn giữ được hơi thở của phong cách hát bội, vì các nhà soạn giả lớp đầu tiên của sân khấu cải lương thường là những người từng viết cho sân khấu hát bội.
Sau đó, các vở với đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường v.v. đã theo cách bố cục của kịch nói, nghĩa là các vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo sự tiến triển của hành động kịch. Về sau, cả bố cục của các vở cải lương, kể cả các vở với đề tài cổ trang cũng theo kiểu bố cục của kịch nói.
Đề tài & cốt truyện
Ban đầu, kịch bản cải lương dựa trên cốt truyện của các tác phẩm thơ Nôm như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, các vở tuồng hát bội, hoặc chuyển thể từ truyện phim và kịch bản Pháp như Bằng hữu binh nhung (frères d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương đến thác (La dame au camélias)… Những năm 1930, xuất hiện các kịch bản mới về đề tài xã hội Việt Nam như đã đề cập ở trên. Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa trên các truyện cổ Ấn Độ, Ai Cập, La Mã, Nhật Bản, Mông Cổ… Do đó, cải lương có đủ loại tuồng ta, tuồng Tàu, tuồng Tây… sau đó thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ Quảng v.v… Chứng tỏ khả năng phong phú và khả năng đáp ứng sở thích của nhiều tầng lớp công chúng.
Sự dung nạp không có thành kiến và bảo thủ trong cải lương có thể được xem là một sự lai tạp, nhưng đó cũng là đặc điểm chung của văn hóa ở miền Nam Bộ, khi tiếp nhận và cải tiến những điều mới và tốt theo sự tiến bộ của xã hội.
Ca nhạc
Các loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi là ca kịch, không phải là nhạc kịch. Điều này bởi vì soạn giả không sáng tác nhạc mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc đã có sẵn, với mục đích tạo ra một câu chuyện phù hợp với diễn biến và sắc thái tình cảm của vở kịch.
Sân khấu cải lương sử dụng các bản nhạc cổ dân ca phong phú của miền Nam. Trên quá trình phát triển, các bản nhạc mới được bổ sung (như Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu, sau đổi tên thành vọng cổ). Ngoài ra, sân khấu cải lương còn sử dụng các điệu nhạc Trung Hoa đã được Việt hóa. Dưới đây là một số bản nhạc phổ biến được sử dụng trong các vở kịch cải lương:
- Tam nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo (đảo ngũ cung) ;
- Khốc hoàng thiên ;
- Phụng hoàng ;
- Nặng tình xưa ;
- Ngũ điểm ;
- Bài tạ ;
- Sương chiều ;
- Tú Anh ;
- Xang Xừ Líu ;
- Văn thiên tường (nhất là lớp dựng) ;
- Ngựa ô Bắc ;
- Ngựa ô Nam ;
- Đoản khúc Lam Giang ;
- Phi vân điệp khúc ;
- Vọng Kim Lang ;
- Kim tiền bản ;
- Duyên kỳ ngộ ;
- U líu u xáng ;
- Trăng thu dạ khúc ;
- Xàng xê,…
Và các điệu lý, như: giao duyên, lý con sáo, lý tòng quân, lý cái mơn v.v..
Bên cạnh đó, khi những bài hát phương Tây xuất hiện trên sân khấu cải lương như Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ phàng), Tango mysterieux (trong Đóa hoa rừng)… thì thời điểm đó, trong một đoàn cải lương xã hội thường có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương ngồi ở phía trong sân khấu, và dàn nhạc jazz ngồi ở phía trước sân khấu…
Diễn xuất
Diễn viên cải lương sử dụng kỹ năng diễn xuất tương tự như diễn viên kịch, nhưng khác biệt ở chỗ họ không nói mà hát. Họ phải phối hợp cử chỉ và điệu bộ phù hợp với lời ca, không cường điệu như hát bội. Theo lời của Vương Hồng Sển, hát bội tượng trưng quá nhiều và thường hát quá to, trong khi cải lương hát nhỏ nhẹ và sinh động hơn. Sau đó vào khoảng những năm 1960, cải lương đã phát triển thêm các cảnh múa, đu bay và võ thuật để làm cho các tác phẩm trở nên sống động hơn.
Y phục, tranh cảnh
Trong các vở diễn tuồng với cốt truyện lấy bối cảnh xưa hoặc được lấy từ nước ngoài, y phục của diễn viên và các cảnh trên sân khấu được lựa chọn để phù hợp với bối cảnh của câu chuyện, tuy nhiên, chúng chỉ mang tính chất ước lệ chứ không chính xác với thực tế. Trong khi đó, trong các vở diễn về đề tài xã hội, diễn viên được mặc quần áo giống như nhân vật trong đời thường.
Ghi công
Đầu tiên nên kể đến công của ông Tống Hữu Định (hay còn gọi là Phó Mười Hai). Sau đó là công lao của ông André Thận, người đã đóng góp cho việc xây dựng và đưa nghệ thuật cải lương lên sân khấu. Ngoài ra, còn có vài người khác đã đóng góp sức mình, như Kinh-lịch Quờn (hay Hườn), Phạm Đăng Đàng…
Ngoài những người đã được đề cập, còn phải kể đến công lao của những bầu, soạn giả, nhạc sĩ và các nghệ sĩ đào tạo danh tiếng thuộc thế hệ đầu tiên như Tư Sự (gánh Đồng Bào Nam), Hai Cu (gánh Nam Đồng Ban), Trần Ngọc Viện (gánh Nữ Đồng Ban), Trương Duy Toản, Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Sáu Lầu (Cao Văn Lầu), Nguyễn Tri Khương, Trần Văn Chiều (tự Bảy Triều), Ba Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc, Năm Phỉ, Ngọc Xứng, Ngọc Sương, Phùng Há, Tư Sạng, Hai Giỏi, Năm Nở, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nam, và nhiều người khác. Tất cả đã đóng góp vào việc hình thành và phát triển nghệ thuật cải lương.
Cải lương đã có cơ hội phát triển mạnh mẽ từ sau Hiệp định Geneve (1954), trở thành một loại hình nghệ thuật và một bộ môn sân khấu thu hút được đông đảo khán giả. Sáng kiến của nhà báo kỳ cựu Trần Tấn Quốc cũng góp phần giúp phát triển nghệ thuật này. Năm 1958, Giải Thanh Tâm được thành lập và liên tục trao phát huy chương và khen thưởng cho những nam nữ nghệ sĩ trẻ triển vọng nhất trong năm.
Một số vở cải lương nổi tiếng
- Tô Ánh Nguyệt ;
- Sầu vương biên ải ;
- Người phu khiêng kiệu cưới ;
- Mùa thu trên Bạch Mã Sơn ;
- Máu nhuộm sân chùa ;
- Chiều đông gió lạnh về ;
- Tuyệt tình ca ;
- Hàn Mặc Tử ;
- Tôn Tẫn Giả Điên ;
- Người vợ không bao giờ cưới ;
- Đời cô Lựu ;
- Lá sầu riêng ;
- Nửa đời hương phấn ;
- Tiếng hạc trong trăng ;
- Sân khấu về khuya ;
- Bên cầu dệt lụa ;
- Tiếng trống Mê Linh ;
- Tấm lòng của biển v.v…